Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại phòng xét xử Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn gồm: Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và điểm cầu thành phần tại nhà tạm giữ Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn gồm có: Bị cáo, Kiểm sát viên, Thư ký, cán bộ chiến sỹ thuộc cơ sở giam giữ đối với vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

32/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Phùng Văn V, sinh ngày 21 tháng 12 năm 1990, tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn L, con bà: Nông Thị V1; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Ngày 17/3/2022, Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 3.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo Quyết định số 47/QĐ-XPHC. Ngày 28/3/2022 đã chấp hành; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chi Lăng từ ngày 28 tháng 6 năm 2022 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Phùng Văn S, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn Pa Ràng, xã Hòa Bình, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

2. Anh Nông Đức L, sinh năm 1995; trú tại: Khu H, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn); vắng mặt.

3. Anh Vi Quốc H, sinh năm 1991; trú tại: Khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 12 giờ 10 phút ngày 28/6/2022, Công an huyện Chi Lăng phối hợp với Công an xã H, huyện C đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường liên thôn thuộc thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, phát hiện Nông Đức L và Vi Quốc H đang sử dụng trái phép chất ma túy. Kiểm tra, thu giữ của Nông Đức L: 01 (một) tờ giấy bạc màu trắng kích thước 7,2cm x 4,5cm; 01 (một) bật lửa màu tím và 01 (một) sim điện thoại di động. Nông Đức L và Vi Quốc H khai nhận vừa sử dụng hết số ma túy mua với PH Văn V.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phùng Văn V. Thu giữ tại túi quần đằng trước bên trái đang mặc của Phùng Văn V 03 (ba) tờ tiền có mệnh giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng), tổng cộng 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Phùng Văn V khai nhận số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) là tiền bán ma túy cho Nông Đức L mà có. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phùng Văn V, thu giữ: 01 (một) tờ giấy bạc kích thước 6cm x 2,5cm; 01 (một) tờ tiền cuộn tròn mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng); 15 (mười năm) gói nhỏ là giấy bạc màu trắng bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng tại đầu giường của Phùng Văn V; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu tím, đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 240/KL-KTHS ngày 30/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng được đựng trong 15 (mười năm) gói giấy bạc (thu giữ tại đầu giường của Phùng Văn V) gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,261 gam (đã trừ bì).

Kết luận giám định số 274/KL-KTHS ngày 01/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền Việt Nam gửi giám định đều là tiền thật. Kết luận giám định số 293/KL-KTHS ngày 13/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Tờ tiền Việt Nam loại mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng) gửi giám định là tiền thật.

Tại Cơ quan điều tra, Phùng Văn V khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 27/6/2022, Phùng Văn V một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8413, nhãn hiệu ESPERO của anh Phùng Văn S, là anh trai của Phùng Văn V đến C, xã Y, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Phùng Văn V gặp một người đàn ông khoảng hơn 50 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) và hỏi mua 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) ma túy thì được người này đồng ý và đưa cho Phùng Văn V 01 (một) gói bọc bằng giấy bên trong có chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy, Phùng Văn V đi về nhà và chia số ma túy mua được thành 19 (mười chín) gói nhỏ, ma túy được bọc trong các tờ giấy bạc, mục đích để dễ sử dụng và bán kiếm lời. Đến sáng ngày 28/6/2022, Phùng Văn V đã một mình sử dụng hết 01 (một) gói ma túy bằng hình thức hít tại giường ngủ của V. Đến khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày, Phùng Văn V nhận được điện thoại của Nông Đức L gọi đến cho Phùng Văn V hỏi mua 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) ma túy, V đồng ý. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Nông Đức L gọi điện thoại cho V nói “em đang ở dưới cổng”. Sau đó, V cầm 03 (ba) gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy ra cổng nhà bán cho L 03 (ba) gói ma túy với giá 300.000 đồng, V cầm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) cho vào túi quần bên trái đằng trước đang mặc rồi đi vào nhà. Đến khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày, Công an huyện Chi Lăng đến làm việc và thu giữ của Phùng Văn V 15 (mười năm) gói ma túy còn lại và các tang vật liên quan.

Cáo trạng số: 35/CT-VKS ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Phùng Văn V về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phùng Văn V đã khai rõ toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy như đã khai tại Cơ quan điều tra, mục đích bị cáo mua bán ma túy để sử dụng và bán kiếm lời.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nông Đức L và Vi Quốc H vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Cơ quan điều tra đã có lời khai rõ về việc được góp chung tiền mua ma túy với Phùng Văn V để sử dụng; trong đó Nông Đức L là người trực tiếp giao dịch, mua ma túy với Phùng Văn V.

Anh Phùng Văn S là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8413, nhãn hiệu ESPRO. Ngày 27/6/2022, không biết việc Phùng Văn V đã tự ý lấy chiếc xe mô tô của anh để đi mua ma túy. Anh S không liên quan đến hành vi phạm tội của Phùng Văn V nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho V ở C, xã Y, huyện V, tỉnh Lạng Sơn và người đàn ông làm nghề lái xe ôm đã cho Nông Đức L số điện thoại của Phùng Văn V, cho L mượn điện thoại để lắp sim và chở L, H đến thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn để mua ma túy, do không có thông tin cụ thể nên cơ quan điều tra không thể điều tra xác minh.

Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ vật chứng thu giữ đã được chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng theo quy định gồm toàn bộ số ma túy thu giữ còn lại sau giám định, tiền, điện thoại di động và những công cụ liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy thu giữ. Tất cả những người tham gia tố tụng đều đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Văn V phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phùng Văn V từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) bật lửa màu tím; 01 (một) tờ giấy bạc màu trắng kích thước 7,2cm x 4,5cm; 01 (một) sim điện thoại di động; 01 (một) tờ giấy bạc kích thước 6cm x 2,5cm. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) của bị cáo do phạm tội mà có; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu tím, đã qua sử dụng; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng).

Phần tranh luận: Không ai có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại Cơ quan điều tra và việc vắng mặt đó không ảnh hưởng đến kết quả xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường; lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 12 giờ ngày 28/6/2022, tại thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Phùng Văn V đã có hành vi bán trái phép 03 (ba) gói ma túy Heroine cho Nông Đức L với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Cùng ngày, khám xét khẩn cấp nơi ở của Phùng Văn V thu giữ được 15 (mười năm) gói ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,261 gam (đã trừ bì).

[4] Nguồn gốc số ma túy Phùng Văn V bán cho Nông Đức L và số ma túy thu giữ được tại nơi ở của Phùng Văn V là do ngày 27/6/2022, Phùng Văn V mua của một người đàn ông không quen biết ở C, xã Y, huyện V, tỉnh Lạng Sơn với giá 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng), sau khi mua về Phùng Văn V đã chia ra thành 19 (mười chín) gói nhỏ ma túy, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

[5] Hành vi của bị cáo Phùng Văn V là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự của địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi nhuận, muốn có tiền để sử dụng trái phép chất ma túy nên bị cáo coi thường pháp luật mà cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Với một lần bán trái phép chất ma túy cho người khác, đã đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự [6] Về nhân thân; tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Do là người sử dụng trái phép chất ma túy và có một tiền sự chưa được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nên là người có nhân thân xấu. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng không có.

[7] Sau khi đánh giá về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, đánh giá về nhân thân, tình tiếp giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo vì không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án, việc này phù hợp với kết quả xác minh của Cơ quan điều tra Công an huyện Chi Lăng.

[8] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy đối với những vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội là vật Nhà nước cấm lưu hành, công cụ liên quan đến hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng bao gồm: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) bật lửa màu tím; 01 (một) tờ giấy bạc màu trắng kích thước 7,2cm x 4,5cm; 01 (một) sim điện thoại di động; 01 (một) tờ giấy bạc kích thước 6cm x 2,5cm. Cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước của bị cáo số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) là tiền bị cáo có được do bán cho đối tượng nghiện ma túy; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu tím, đã qua sử dụng, bị cáo dùng để liên lạc bán ma túy cho Nông Đức L; 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng) do bị cáo dùng làm công cụ để sử dụng ma túy.

[9] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị Phùng Văn V theo tội danh và điều khoản trong Bộ luật Hình sự như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị về tội danh, về hình phạt đối với bị cáo và xử lý vật chứng là có căn cứ.

[10] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nông Đức L và Vi Quốc H do không thu được ma túy, kết quả tra cứu thông tin các đối tượng chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến tội phạm về ma túy, Công an huyện Chi Lăng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ.

[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Phùng Văn V ở C, xã Y, huyện Văn Q, tỉnh Lạng Sơn và người đàn ông làm nghề lái xe ôm đã cho Nông Đức L số điện thoại của Phùng Văn V, cho L mượn điện thoại để lắp sim và chở L, H đến thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn để mua ma túy, do không có thông tin cụ thể nên không thể điều tra xác minh.

[12] Đối với Phùng Văn S là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8413, nhãn hiệu ESPRO. Ngày 27/6/2022, không biết V đã sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi mua ma túy và không liên quan đến hành vi phạm tội của Phùng Văn V nên không xem xét xử lý.

[13] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

[14] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 47; các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ khoản 2 Điều 106; khoản 1 Điều 292; khoản 2 Điều 136; các Điều 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Văn V phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phùng Văn V 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 28 tháng 6 năm 2022.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy đựng 0,223 gam ma túy Heroime được niêm phong trong túi niêm phong số PS3A, ký hiệu 116629; 01 (một) tờ giấy bạc màu trắng; 01 (một) bật lửa màu tím; 01 (một) sim điện thoại di động được niêm phong trong túi niêm phong số PS3A, ký hiệu 116633; 01 (một) tờ giấy bạc kích thước 6cm x 2,5cm được niêm phong trong túi niêm phong có mã số PS3A, ký hiệu 116630.

3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu tím, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì niêm phong số PS3A, ký hiệu 116632; số tiền 300.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng.

(Vật chứng lưu giữ tại kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng, theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chi Lăng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng ngày 31 tháng 8 năm 2022).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;