Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 342/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 342/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 330/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 299/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Bùi Thanh Phương L, sinh năm: 1979 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú: 69, khu phố P, phường T, thành phố A, tỉnh Bình Dương; Nơi cư trú: tổ 16D, khu phố H, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn K, sinh năm: 1947 (đã chết) và bà Lê Thị M, sinh năm: 1949 (đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1991; Có 02 con, con lớn sinh năm: 2004 và con nhỏ sinh năm: 2006; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:

+ Ngày 22/9/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án hình sự sơ thẩm số: 303/2016/HSST).

+ Ngày 14/12/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn là 18 tháng (Quyết định số: 101/QĐ-TA).

Bị bắt tạm giữ từ ngày 24 tháng 02 năm 2021, chuyển tạm giam ngày 04 tháng 3 năm 2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố Biên Hòa.

2. Trần Văn C, sinh năm: 1989 tại Cà Mau; Nơi đăng ký thường trú: ấp B, xã Tr, huyện H, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: khu phố H, phường A, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn K, sinh năm: 1972 (đã chết) và bà Huỳnh Thị Đ, sinh năm: 1968; Chưa có vợ, con; Tiền án:

+ Ngày 18/7/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án hình sự sơ thẩm số: 421/2013/HSST).

+ Ngày 05/11/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án hình sự sơ thẩm số: 510/2019/HSST).

Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 24 tháng 02 năm 2021, chuyển tạm giam ngày 04 tháng 3 năm 2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố Biên Hòa.

(Các bị cáo Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15 tháng 02 năm 2021, Bùi Thanh Phương L mua của 01 người phụ nữ tên Hài (chưa rõ nhân thân, lai lịch) 04 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.700.000đ (một triệu, bảy trăm nghìn đồng). Sau đó, L chia số ma túy trên thành nhiều gói nhỏ để bán lại kiếm lời.

Đến khoảng 21 giờ ngày 23 tháng 02 năm 2021, có một người tên Hoàng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) điện thoại cho L hỏi mua 01 gói ma túy với giá 1.200.000đ (một triệu, hai trăm nghìn đồng) rồi hẹn địa điểm giao ma túy tại quán Con Cá Vàng thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa. Sau đó, L bỏ 01 gói ma túy vào bên trong 01 chiếc bánh mì rồi gọi điện cho Trần Văn C tới phòng trọ của L để lấy ma túy đi giao cho Hoàng và mang tiền về cho L. Nhận ma túy từ L, C điều khiển xe môtô (không có biển số) chở theo chị Nguyễn Thị Diễm Ph (bạn gái của C) đi đến địa điểm đã hẹn trước với Hoàng. Khi C đi đến khu vực thuộc tổ 20, khu phố 3, phường Bửu Long thì bị phát hiện, bắt quả tang. Qua lời khai của C, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của L, thu giữ một số vật chứng của vụ án đồng thời lập hồ sơ xử lý L và C theo quy định của pháp luật.

Vật chứng của vụ án:

- Thu giữ của Bùi Thanh Phương L:

+ 02 bình nhựa chế thành bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 09 nỏ thủy tinh và 03 cân điện tử.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số sim thuê bao: 0919901824, số Imei: 355179/03/115549/5; 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số sim thuê bao 0565576175, số Imei: 357507/01/147953/5 ; 01 điện thoại di động hiệu Vivo có số sim thuê bao 0988873291, số Imei: 860671057476415; 01 điện thoại di động hiệu Oppo có số Imei: 864816022586170 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số Imei: 353501/02/694220/1.

+ 09 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, được hàn kín hai đầu.

- Thu giữ của Trần Văn C:

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei: 35250604214903/4; 01 xe môtô hiệu Honda Wave không có biển số, có số khung: RLHHC12028Y 577056 và số máy: HC 12E-0160534.

+ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, được hàn kín hai đầu.

Tại Kết luận giám định số: 360/KLGĐ-PC09 ngày 01/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (trên phong bì có chữ ký, họ tên Bùi Thanh Phương L và hình dấu tròn đỏ của Công an phường Hóa An) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 16,03687 gam, loại Methamphetamine”.

Tại Kết luận giám định số: 361/KLGĐ-PC09 ngày 02/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (trên phong bì có chữ ký, họ tên Trần Văn C và hình dấu tròn đỏ của Công an phường Bửu Long) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,17142 gam, loại Methamphetamine”.

Tại Cáo trạng số: 355/CT-VKSBH ngày 28 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Bùi Thanh Phương L theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Trần Văn C theo điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Bùi Thanh Phương L từ 09 (chín) năm đến 10 (mười) năm tù.

- Điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 07 (bảy) năm đến 08 (tám) năm tù.

- Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự để:

+ Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy được niêm phong còn lại sau giám định, 02 bình nhựa, 09 nỏ thủy tinh và 03 cân điện tử là vật chứng của vụ án.

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số sim thuê bao: 0919901824, số Imei: 355179/03/115549/5; 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số sim thuê bao 0565576175, số Imei: 357507/01/147953/5; 01 điện thoại di động hiệu Vivo có số sim thuê bao 0988873291, số Imei: 860671057476415; 01 điện thoại di động hiệu Oppo có số Imei: 864816022586170 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số Imei: 353501/02/694220/1 của bị cáo Bùi Thanh Phương L được sử dụng vào việc thực hiện tội phạm.

+ Trả lại cho bị cáo Trần Văn C 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei: 35250604214903/4 do không liên quan đến việc thực hiện tội phạm.

Các bị cáo không phát biểu bào chữa cho mình và cũng không yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu khác ngoài những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ của vụ án ra xem xét tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa:

Trong quá trình điều tra, truy tố thì Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên nên các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đều hợp pháp, đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23 tháng 02 năm 2021, tại khu vực thuộc tổ 20, khu phố 3, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa; Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C đã có hành vi bán 01 gói ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 2,17142 gam cho người tên Hoàng (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ thêm tại phòng trọ của L 09 gói ma túy cùng loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 16,03687 gam mà L đang cất giấu nhằm mục đích mua bán.

Tại phiên tòa các bị cáo Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C đều đã khai nhận hành vi thực hiện tội phạm của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thể hiện tại hồ sơ vụ án; phù hợp với những nội dung mà bản Cáo trạng đã viện dẫn và truy tố.

Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác.

[3]. Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo:

- Bị cáo Bùi Thanh Phương L là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Trần Văn C cùng thực hiện hành vi phạm tội; Tổng khối lượng ma túy mà bị cáo L tàng trữ nhằm mục đích bán lại là 18,20829 gam nên bị cáo còn phạm vào tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

- Bị cáo Trần Văn C là đồng phạm giúp sức cho bị cáo L thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy với khối lượng ma túy là 2,17142 gam. Bị cáo còn là người đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo còn phạm vào tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về quyết định hình phạt:

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của từng bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì cần có mức án thật nghiêm, tiếp tục cách ly ra khỏi xã hội một thời gian đối với các bị cáo mới thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[7]. Về các nội dung khác có liên quan đến vụ án:

- Đối với đối tượng tên Hài (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người đã bán ma túy cho bị cáo L và đối tượng tên Hoàng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người đặt mua ma túy của bị cáo L, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, làm rõ và sẽ xử lý sau.

- Đối với chị Nguyễn Thị Diễm Ph mặc dù là người được bị cáo C chở theo khi đi giao ma túy cho Hoàng, nhưng do chị Ph không biết L và C đang thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự của chị Ph là đúng theo quy định của pháp luật.

- Đối với chiếc xe môtô hiệu Honda Wave không có biển số mà bị cáo C sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh nguồn gốc xe và sẽ xử lý sau.

[8]. Về các biện pháp tư pháp:

- Đối với khối lượng ma túy được niêm phong còn lại sau giám định, 02 bình nhựa, 09 nỏ thủy tinh, 03 cân điện tử là vật chứng của vụ án và không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số sim thuê bao: 0919901824, số Imei: 355179/03/115549/5; 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số sim thuê bao 0565576175, số Imei: 357507/01/147953/5; 01 điện thoại di động hiệu Vivo có số sim thuê bao 0988873291, số Imei: 860671057476415; 01 điện thoại di động hiệu Oppo có số Imei: 864816022586170 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số Imei: 353501/02/694220/1 được bị cáo L được sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei: 35250604214903/4 là tài sản riêng của bị cáo C và không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên cần giao trả lại cho bị cáo.

[9]. Về tiền án phí: các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[10]. Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bùi Thanh Phương L 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 24 tháng 02 năm 2021.

2. Căn cứ vào điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Trần Văn C 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 24 tháng 02 năm 2021.

3. Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói ma túy được niêm phong số: 360/KLGĐ- PC09 ngày 01/3/2021 và 01 (một) gói ma túy được niêm phong số: 361/KLGĐ- PC09 ngày 02/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đồng Nai; 02 (hai) bình nhựa, 09 (chín) nỏ thủy tinh và 03 (ba) cân điện tử.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số sim thuê bao: 0919901824, số Imei: 355179/03/115549/5; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung có số sim thuê bao 0565576175, số Imei: 357507/01/147953/5; 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo có số sim thuê bao 0988873291, số Imei: 860671057476415; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo có số Imei: 864816022586170 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số Imei: 353501/02/694220/1.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn C 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung có số Imei: 35250604214903/4.

(Tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

- Án phí hình sự sơ thẩm: các bị cáo Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

- Các bị cáo Bùi Thanh Phương L và Trần Văn C được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 342/2021/HS-ST

Số hiệu:342/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;