Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 34/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại Trường trung học cơ sở G, khu phố C, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Thanh P, (tên gọi khác: B), sinh năm 1988; nơi sinh: tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: khu phố P, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị C; vợ: Phạm Thị Thu T (đã ly hôn), con: có 01 người, sinh năm 2007; tiền án: không có; tiền sự: bị xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa nộp phạt) tại Quyết định số 49/QĐ-XPHC ngày 27/8/2022 của Công an phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa thi hành) tại Quyết định số 19/QĐ-TA ngày 12/12/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; Nhân thân: tại Quyết định số 74/QĐ-XPHC ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng đã áp dụng biện pháp xử lý 2 hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 18 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã chấp hành quyết định xong, bị tạm giữ ngày 25/4/2023, tạm giam ngày 28/4/2023 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Võ Nguyễn Khánh V, sinh năm 2005; địa chỉ: khu phố L, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

- Nguyễn Thị C, sinh năm 1960; địa chỉ: khu phố P, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 50 phút ngày 25/4/2023, Công an thị xã T bắt quả tang Phạm Thanh P đang bán trái phép 01 đoạn ống hút nhựa màu tím được bịt kín, bên trong có chứa tinh thể rắn (nghi là chất ma túy, ký hiệu M1) với số tiền 300.000 đồng cho Nguyễn Hùng L, sinh năm 1995 và Võ Nguyễn Khánh V, sinh năm 2005 tại khu phố P, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh. Thu giữ thêm số tiền Việt Nam 50.000 đồng và một số vật chứng khác có liên quan.

Qua điều tra, thể hiện: Vào khoảng 12 giờ ngày 25/4/2023, do có nhu cầu sử dụng chất ma túy nên Võ Nguyễn Khánh V hùn số tiền 100.000 đồng, Nguyễn Hùng L hùn số tiền 200.000 đồng để mua chất ma túy. Lúc này, V gọi điện và nhắn tin cho Phạm Thanh P hỏi mua chất ma túy với số tiền 300.000 đồng thì P đồng ý bán và kêu V đến trước nhà máy X lúa gần nhà P đưa tiền trước. Nhận tiền xong, P điều khiển xe môtô biển số 64H5-X đến khu vực cổng khu công nghiệp T thuộc phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh gặp người thanh niên tên “Già”, khoảng 30 tuổi (không rõ địa chỉ) mua 01 đoạn ống hút nhựa màu tím bên trong có chứa chất ma túy với số tiền 300.000 đồng. P đem chất ma túy về quán nước không biển hiệu thuộc khu phố P, phường G, thị xã T bán cho L và V, L cho P thêm số tiền 50.000 đồng thì bị bắt quả tang.

Ngoài ra, từ ngày 22/4/2023 đến ngày 24/4/2023, P còn bán trái phép chất ma túy cho V được 03 lần, mỗi lần bán 01 bịch với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 615/KL-KTHS ngày 27/4/2023 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận: Tinh thể rắn ký hiệu M1 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0897 gam.

Tại Cáo trạng số 33/CT-VKSTrB ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng đã truy tố bị cáo P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ các điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thanh P mức án từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo không có tài sản nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” của bị cáo Phạm Thanh P, Võ Nguyễn Khánh V và Nguyễn Hùng L đã bị Công an thị xã T xử phạt vi phạm hành chính.

Riêng người thanh niên tên “Già” mà bị cáo P khai đã bán chất ma túy cho P, hiện không rõ địa chỉ và chưa làm việc được; Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị C vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong quá trình điều tra bà C trình bày: Bà C là mẹ ruột của bị cáo P. Việc bị cáo P dùng xe mô tô hiệu Angel, màu sơn đỏ-đen, số máy VMVA1KH501868, số khung RLGMC11AH501868, dung tích xi lanh 108cm3 (đã qua sử dụng), biển số 64H5-X để đi mua ma túy sử dụng bà không biết. Nay bà đã nhận lại xe mô tô và không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên toà bị cáo P thừa nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình như cáo trạng truy tố. Bị cáo thống nhất nội dung bản Cáo trạng cũng như bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Lời khai của bị cáo tại phiên toà là khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 22/4/2023 đến ngày 24/4/2023, Phạm Thanh P bán trái phép chất ma túy cho Võ Nguyễn Khánh V được 03 lần. Tiếp tục vào ngày 25/4/2023, P bán 0,0897 gam chất ma túy, loại Methamphetamine cho V và Nguyễn Hùng L với số tiền 300.000 đồng tại khu phố P, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt quả tang.

Căn cứ vào Kết luận giám định số 615/KL-KTHS ngày 27/4/2023 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận: Tinh thể rắn ký hiệu M1 là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0897 gam.

Do đó đủ căn cứ kết luận bị cáo Phạm Thanh P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con ngườivà đời sống xã hội, bị cáo là người nghiện ma túy, do muốn thu lợi bất chính cao, để có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dụng, nên bị cáo hoạt động mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bất chấp pháp luật. Bị cáo có 02 tiền sự bị xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa nộp phạt) tại Quyết định số 49/QĐ-XPHC ngày 27/8/2022 của Công an phường G, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng (chưa thi hành) tại Quyết định số 19/QĐ-TA ngày 12/12/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, bị cáo không chịu từ bỏ mà vẫn tiếp tục con đường cũ, chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật. Nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử còn xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Cụ thể:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên bị cáo là người có nhân thân xấu, tại Quyết định số 74/QĐ-XPHC ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng đã áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 18 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Sau khi chấp hành xong bị cáo vẫn không có ý thức chấp hành pháp luật mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú khai ra những lần phạm tội trước đó. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra, xác minh bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” của bị cáo Phạm Thanh P, Võ Nguyễn Khánh V và Nguyễn Hùng L đã bị Công an thị xã T xử phạt vi phạm hành chính.

Riêng người thanh niên tên “Già” mà bị cáo P khai đã bán chất ma túy cho P, hiện không rõ địa chỉ và chưa làm việc được; Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) bật lửa màu trắng-hồng, trên thân có chữ “Hoa Việt”, bên trong có hai hột xí ngầu màu xanh và màu đỏ; 01 (một) nắp nhựa màu trắng, trên nắp có hai lỗ tròn, một lỗ gắn một ống thủy tinh trong suốt dạng phễu, một lỗ gắn một ống hút nhựa màu xanh không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

Đối với tiền Việt Nam 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI 1: 353378099211081, số IMEI 2: 353378099291083, bên trong có sim số 0372019X (điện thoại bị bể màn hình), điện thoại đã qua sử dụng, dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, số IMEI: 355862/01/62991718, bên trong có sim số 0948156X của Võ Nguyễn Khánh V, điện thoại đã qua sử dụng, đây là điện thoại V đã sử dụng để liên lạc với bị cáo P để mua ma túy liên quan đến việc thực hiện tội phạm, vì vậy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Ghi nhận bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1960, nơi thường trú: khu phố P, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh đã nhận lại xe mô tô hiệu Angel, màu sơn đỏ- đen, số máy VMVA1KH501868, số khung RLGMC11AH501868, dung tích xi lanh 108cm3 (đã qua sử dụng), biển số 64H5-X, bà C không yêu cầu gì thêm, nên không đặt ra giải quyết.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng tại phiên tòa về mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh P (tên gọi khác: B) 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 25-04-2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) bật lửa màu trắng-hồng, trên thân có chữ “Hoa Việt”, bên trong có hai hột xí ngầu màu xanh và màu đỏ;

+ 01 (một) nắp nhựa màu trắng, trên nắp có hai lỗ tròn, một lỗ gắn một ống thủy tinh trong suốt dạng phễu, một lỗ gắn một ống hút nhựa màu xanh;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước :

+ Tiền Việt Nam 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng);

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI 1: 353378099211081, số IMEI 2: 353378099291083, bên trong có sim số 0372019X (điện thoại bị bể màn hình);

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, màu đen, số IMEI: 355862/01/62991718, bên trong có sim số 0948156X;

Ghi nhận bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1960, nơi thường trú: khu phố P, phường G, thị xã T, tỉnh Tây Ninh đã nhận lại xe mô tô hiệu Angel, màu sơn đỏ- đen, số máy VMVA1KH501868, số khung RLGMC11AH501868, dung tích xi 7 lanh 108cm3 (đã qua sử dụng), biển số 64H5-X, bà C không yêu cầu gì thêm, nên không đặt ra giải quyết.

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Thanh P (tên gọi khác: B) phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo P có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng chị Võ Nguyễn Khánh V, bà Nguyễn Thị C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;