Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

 BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 11/05/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm: trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuT3 vụ án hình sự thụ lý số 22/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2023; Thông báo về việc thay đổi thời gian, địa điểm, hình thức tổ chức phiên tòa số 01/TB-TA ngày 21/4/2023; Thông báo về thời gian, địa điểm mở phiên tòa số 02/TB-TA ngày 26/4/2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1993 tại xã TH, huyện BG, tỉnh Hải Dương; nơi cư tr : thôn PK, xã TH, huyện BG, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1 (đã chết) và bà Hoàng Thị T2; có vợ là Nguyễn Thị T3 và 02 con;

Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:

+ Bản án số 27 ngày 07/7/2017, Tòa án nhân dân huyện Bình Giang xử phạt 24 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma t y, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 31/01/2019.

+ Bản án số 37 ngày 06/8/2020, Tòa án nhân dân huyện Bình Giang xử phạt 8 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 13/11/2020.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2023 đến ngày 04/01/2023 áp dụng biện pháp tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Dương Công V, anh Nguyễn Văn D, chị Dư Thị H (đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 24/12/2022, Phạm Văn T đi bộ từ nhà ra đường tỉnh lộ 394 đi xe buýt đến khu vực cầu vượt LC thuộc thị trấn LC, huyện CG, tỉnh Hải Dương mua ma t y về bán kiếm lời. Khi đến nơi, T gặp và mua của người đàn ông tên A (không xác định được nhân thân, lai lịch) 02 viên ma t y loại kẹo đựng trong t i nilon màu trắng với giá 500.000 đồng, T cất giấu trong người rồi đi xe buýt về. Sau khi về đến nhà, T lấy mảnh giấy hình tròn mầu trắng, đường kính 13cm, gói t i nilon chứa 2 viên ma t y kẹo rồi cho vào trong hộp giấy mầu hồng, bên ngoài có chữ POKER, kích thước (4 x 5,5 x 1,5)cm, sau đó cất giấu vào t i quần đang mặc để bán cho người nghiện kiếm lời.

Khoảng 12 giờ cùng ngày, Dương Công V ngồi chơi tại nhà mình cùng anh Nguyễn Văn D và chị Dư Thị H. Trong l c ngồi chơi, V mượn điện thoại di động Iphone 6 của anh D (V không nói cho D biết mượn để làm gì) rồi đi ra ngoài gọi điện từ tài khoản Messenger của anh D, tên đăng nhập “D Con” đến tài khoản Messenger, tên đăng nhập “T” của Phạm Văn T hỏi mua 2 viên ma t y kẹo, T đồng ý và nói giá 700.000 đồng, V đồng ý. T bảo V chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng cho T rồi T sẽ gửi vị trí chỗ để ma t y cho V tự đến lấy. Sau đó, T sử dụng điện thoại IphoneX nhắn tin từ tài khoản “T” đến tài khoản “D Con” với nội dung bảo V chuyển tiền vào số tài khoản `09628182xx mang tên Phạm Văn T tại Ngân hàng TMCP Quân đội (MB). Do không có tài khoản ngân hàng nên V nhờ chị H chuyển gi p tiền đến tài khoản của T (V không nói cho chị H biết m c đích chuyển tiền hộ). Chị H sử dụng điện thoại di động đăng nhập vào tài khoản Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), số tài khoản 03835223xx của mình chuyển 700.000 đồng vào tài khoản số `09628182xx của T. Sau khi chị H chuyển tiền thành công, V chụp ảnh màn hình điện thoại của chị H rồi sử dụng tài khoản Messenger “D Con” gửi hình ảnh chuyển tiền thành công đến tài khoản Messenger “T” cho T rồi trả 700.000 đồng tiền mặt cho chị H, sau đó chị H đi về nhà. Sau khi nhận được tiền, T sử dụng điện thoại chụp ảnh hộp giấy đựng 2 viên ma t y đã chuẩn bị trước đó rồi mang ra để ở gốc cây, cách nhà T 52m, sau đó T chụp ảnh vị trí gốc cây để ma t y và gửi hình ảnh vào tài khoản Messenger “D Con” đồng thời gọi điện chỉ dẫn vị trí gốc cây để V biết tự đến lấy ma t y.

Sau khi được T chỉ vị trí cất giấu ma t y, V bảo anh D chở về nhà anh D chơi (mục đích để V lấy ma t y của T để ở gốc cây nhưng V không nói cho anh D biết), anh D đồng ý. Anh D sử dụng xe mô tô BKS 34B3 - 194.xx (mượn của anh Vũ Đức T4) chở V đi về nhà mình. Khi đi đến đầu làng thôn PK, gần nhà T, V bảo anh D dừng lại đợi, V xuống xe đi bộ đến chỗ gốc cây (như chỉ dẫn của T) lấy hộp giấy chứa ma t y cất vào trong người. V đi quay lại bảo D về nhà, còn V đi bộ ra đường tỉnh lộ 394 thuê xe ôm của người không quen biết đi về. Sau khi về đến nhà, V mở hộp giấy thấy bên trong có 2 viên ma t y kẹo mầu xám, V lấy sử dụng 1 viên, còn 1 viên cất vào trong hộp giấy rồi giấu trong người để sử dụng dần. Đến khoảng 21 giờ ngày 29/12/2022, V lấy viên ma t y còn lại bẻ 1 mảnh ra sử dụng, còn 1 mảnh V lại cất vào trong hộp giấy.

Khoảng 12 giờ ngày 31/12/2022, anh D điều khiển xe mô tô BKS 34B3 - 194.xx đến nhà V chơi. Tại đây, V lại bảo anh D chở về nhà anh D chơi (mục đích để V đến nhà T mua ma t y nhưng không nói cho anh D biết), anh D đồng ý. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, anh D chở V đến đầu làng thôn PK, V bảo anh D dừng xe, V xuống xe đi bộ vào gần đến nhà T thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang kiểm tra, phát hiện, thu giữ trên người V 01 hộp giấy màu hồng mặt ngoài có chữ POKER, kích thước (4 x 5,5 x 1,5)cm, bên trong có mảnh viên nén mầu xám đựng trong t i nilon kích thước (4 x 6)cm được bọc bên ngoài bằng mảnh giấy hình tròn đường kính 13cm, V khai mảnh viên nén là ma t y dạng kẹo mua của T vào ngày 24/12/2022.

Cùng ngày 31/12/2022, Phạm Văn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang đầu th và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung trên, đồng thời giao nộp điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; anh Nguyễn Văn D tự nguyện giao nộp điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6 lắp sim số 0964.084.9xx để phục vụ điều tra.

Kết luận giám định số 67/KL-KTHS ngày 03/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: 01 mảnh viên nén mầu xám thu giữ của Dương Công V gửi đến giám định khối lượng là 0,067g là ma t y loại MDMA. Hoàn lại đối tượng giám định 0,043g ma t y loại MDMA, 1 vỏ t i nilon màu trắng, 1 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật. MDMA - STT 11, Mục IB, Danh mục I, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Tại bản Cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 28-3-2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

- Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như bản Cáo trạng đã nêu là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ với gia đình.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma t y”. Về hình phạt chính: áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/01/2023. Về hình phạt bổ sung: áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự; phạt tiền bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng sung quỹ nhà nước. Về vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ: 0,043g ma t y loại MDMA; 1 vỏ t i nilon; 1 vỏ phong bì; 1 hộp giấy mầu hồng nhãn hiệu POKER; 01 mảnh giấy hình tròn mầu trắng. Tịch thu phát mại nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng của bị cáo Phạm Văn T. Tịch thu của bị cáo Phạm Văn T số tiền 700.000đ nộp vào ngân sách nhà nước. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản vụ việc, kết luận giám định, kết quả thực nghiệm điều tra, kết quả giải trình điện thoại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 24/12/2022, tại thôn PK, xã TH, huyện BG, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn T có hành vi bán trái phép cho Dương Công V 2 viên ma t y loại MDMA với giá 700.000 đồng, V sử dụng một phần, còn lại 0,067g MDMA V cất giấu trong người để sử dụng, đến khoảng 12 giờ 30 ph t ngày 31/12/2022, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang phát hiện, thu giữ. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh một số tội phạm khác nhưng vì mục đích kiếm lời, bị cáo vẫn cố ý thực hiện nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị kết án về các tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; sau khi thực hiện hành vi phạm tội và bị phát hiện, bị cáo đã đến cơ quan điều tra đầu thú, khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [6] Đối với đối tượng bán ma t y cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được là ai, ở đâu; đối với anh Nguyễn Văn D cho V mượn điện thoại di động nhưng không biết V dùng vào việc phạm tội, chở V đến thôn PK, xã TH nhưng không biết V đi mua ma t y; chị Dư Thị H chuyển tiền đến tài khoản của bị cáo T nhưng không biết V nhờ chuyển tiền để mua ma t y nên không có căn cứ xử lý. Đối với xe mô tô BKS 34B3 - 194.xx anh D mượn của anh Vũ Đức T4 không liên quan đến tội phạm nên cơ quan điều tra không quản lý là phù hợp. Đối với Dương Công V có hành vi tàng trữ trái phép 0,067g ma t y loại MDMA nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, ngày 15/02/2023 Công an huyện Bình Giang đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Dương Công V là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,043g ma t y loại MDMA; 1 vỏ t i nilon; 1 vỏ phong bì; 1 hộp giấy mầu hồng nhãn hiệu POKER kích thước (4 x 5,5 x 1,5)cm; 01 mảnh giấy hình tròn mầu trắng đường kính 13cm là vật nhà nước cấm lưu hành (đối với MDMA) và vật chứng không còn giá trị sử dụng (đối với các vật chứng khác) nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X quản lý của bị cáo T, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, phát mại sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 700.000đ bị cáo bán ma t y cho Dương Công V, đây là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

Đối với điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 lắp sim số 0964.084.9xx quản lý của anh Nguyễn Văn D, ngày 11/01/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại anh D là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù T từ ngày tạm giữ 01/01/2023.

3. Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) đối với bị cáo Phạm Văn T, sung quỹ nhà nước.

4. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu huỷ: 0,043g ma t y loại MDMA; 1 vỏ t i nilon; 1 vỏ phong bì; 1 hộp giấy mầu hồng nhãn hiệu POKER kích thước (4 x 5,5 x 1,5)cm; 01 mảnh giấy hình tròn mầu trắng đường kính 13cm.

Tịch thu phát mại nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng của bị cáo Phạm Văn T.

Tịch thu của bị cáo Phạm Văn T số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) nộp vào ngân sách nhà nước.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 31/3/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang).

5. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;