Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 296/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 296/2020/HS-ST NGÀY 05/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 276/2020/HSST ngày 22 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 278/2020/HS-QĐ, ngày 23/10/2020, đối với bị cáo:

1. Triệu Tiến M, Sinh năm: 2001; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: không; HKTT: xóm N, xã A, huyện B, Hà Nội; Chỗ ở: Số 1 ngõ B, xã A, huyện B, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Bố: Triệu Văn A -Sinh năm: 1975; Mẹ: Nguyễn Thị B -Sinh năm: 1981; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất; Theo danh chỉ bản số 452, lập ngày 3 tháng 7 năm 2020 tại Công an quận Bắc Từ Liêm thì bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – công an thành phố Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 17/3/2002; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: không; HKTT: ngõ 1 Lương Văn Q, phường I, quận H, TP. Hà Nội; Chỗ ở: ngõ 1 Lương Văn Q, phường I, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Bố: Nguyễn Ngọc P -Sinh năm: 1981; Mẹ: Nguyễn Thị O -Sinh năm: 1979; Gia đình có hai em. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Theo danh chỉ bản số 451, lập ngày 3 tháng 7 năm 2020 và lý lịch tư pháp thì bị cáo có 01 tiền sự, ngày 15 tháng 6 năm 2020, Công an phường Nhân Chính xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị can bị bắt quả tang, tạm giữ và tạm giữ từ ngày 24/6/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

3. Họ và tên: Hoàng Văn M - Sinh ngày: 04/01/2002; Giới tính: Nam; tên gọi khác: không; HKTT: P7 B19 tập thể T, phường T, quận T, Hà Nội; Chỗ ở:

10 A1 tập thể T, quận T, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Họ tên cha: Hoàng Văn K, sinh năm: 1974; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H, Sinh năm: 1977; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất. Theo danh chỉ bản số 450, lập ngày 3 tháng 7 năm 2020 lập tại Công an quận Bắc Từ Liêm thì bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị can bị bắt quả tang, tạm giữ và tạm giam từ ngày 24/6/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn Th -sinh năm 1993; HKTT: TDP 2 Mễ Trì Hạ, phường M, quận N, Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị O -Sinh năm: 1979; Chỗ ở: ngõ 1 Lương Văn Q, phường I, quận H, Hà Nội 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 05 phút ngày 24/6/2020, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị L và Hoàng Văn M có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn Th (sinh năm 1993, HKTT: tổ dân phố 2 I, phường M, quận N, Hà Nội) tại khu vực cổng trường Đại học Công nghiệp Hà Nội thuộc phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ tang vật và đưa 03 đối tượng về trụ sở công an phường Minh Khai để làm việc.

Vật chứng thu giữ:

Thu giữ của Nguyễn Thị Ngọc L:

- 01 (một) túi nilong màu trắng kích thước khoảng (5,5x8,5) cm bên trong chứa thảo mộc khô;

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng hồng đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao 0329882744;

- 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Wave màu đen xám lắp BKS: 29T1 – 872.68;

- Số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

Thu giữ của Nguyễn Văn Th:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Nokia màu xanh xám lắp số thuê bao 0966899583, đã qua sử dụng.

Thu giữ của Hoàng Văn M:

- 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Oppo màu vàng đã qua sử dụng, lắp số thuê bao 0383729532, không kiểm tra bên trong máy.

Khám xét nơi ở của Nguyễn Thị L tại ngõ 1 Lương Văn Q, phường I, quận H, Hà Nội. Kết quả không thu giữ thêm đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại trụ sở công an, Nguyễn Thị L khai do bản thân không có sẵn ma túy nên đã mua số ma túy trên của Triệu Tiến M tại Số 1 ngõ B, xã A, huyện B, Hà Nội.

Ngày 24/6/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Bắc Từ Liêm ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 244, khám xét nơi ở Triệu Tiến M tại Số 1 ngõ B, xã A, huyện B, Hà Nội. Kết quả khám xét phát hiện và thu giữ 01 (một) lọ thủy tinh trong suốt cao khoảng 10 cm, bên trong chứa thảo mộc khô và 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, vỡ màn hình lắp số thuê bao 0888095420.

Ngày 24/6/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định số 494 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - công an thành phố Hà Nội giám định số ma túy thu giữ của Nguyễn Thị L và Triệu Tiến M.

Kết luận giám định số 5118/KLGĐ-PC09 ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

“1. Tang vật thu giữ của Nguyễn Thị L có: Thảo mộc khô bên trong 01 túi nilong là cần sa, khối lượng: 3,833 gam.

2. Tang vật thu giữ của Triệu Tiến M có: Thảo mộc khô bên trong 01 lọ thủy tinh là cần sa, khối lượng: 19,265 gam.” Quá trình điều tra xác định:

Ngày 17/6/2020, do muốn sử dụng ma túy cần sa nên Nguyễn Văn Th (sinh năm 1993, HKTT: phường M, quận N, Hà Nội) sử dụng tài khoản “Siro Nguyen” lên mạng Facebook tìm mua ma túy thì biết tài khoản “Trà My” của Nguyễn Thị L bán ma túy cần sa nên nhắn tin hỏi mua nhưng do không thống nhất hình thức giao dịch nên chưa thực hiện được. Đến khoảng 12 giờ ngày 24/6/2020, do cần tiền tiêu xài nên L sử dụng tài khoản Facebook “Trà My” nhắn tin đến tài khoản “Siro Nguyen” của Tú để hỏi Tú có mua ma túy cần sa không. Tú hỏi mua 05 gam và bảo L mang tới Đại học Công nghiệp thuộc phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội để giao dịch thì L đồng ý bán với giá 900.000 đồng cộng thêm 60.000 đồng tiền công vận chuyển. Sau đó, cả hai trao đổi số điện thoại để liên lạc mua bán ma túy. Do không có sẵn ma túy và biết Triệu Tiến M có ma túy cần sa nên L sử dụng tài khoản Facebook “ Nguyễn L” nhắn tin đến tài khoản Facebook “Tiến M” của Triệu Tiến M bảo có người muốn mua 5 gam ma túy cần sa thì M đồng ý bán cho L với giá 800.000 đồng. Sau đó, L điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 29T1-87268 đi đến số nhà 09 ngõ 66B đường Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội rồi lên tầng 3 số nhà 09 gặp M. M lấy ma túy cần sa từ lọ thủy tinh cất trong phòng cho vào 01 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng (5.5x8.5)cm rồi đưa cho L, và L hẹn khi nào bán xong ma túy thì trả tiền cho M. Sau khi mua được ma túy thì L cất vào trong túi quần bên trái rồi gọi điện thoại rủ Hoàng Văn M đi bán ma túy cần sa cùng, Nam hẹn L qua sân khu tập thể B6 Thanh Xuân Bắc, phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Hà Nội để nói chuyện. Khi đến nơi, L cho Nam xem túi ma túy rồi bảo Nam đi bán cùng, sau khi bán xong thì mỗi người được 80.000 đồng thì Nam đồng ý. Sau đó, L cất ma túy vào túi quần bên trái, rồi Nam điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 29T1-87268 chở L đi đến cổng trường Đại học Công nghiệp. Khi đến điểm hẹn, cả hai gặp Tú, L vào ngồi quán nước cùng Tú để trao đổi mua bán ma túy rồi Tú đưa L số tiền 400.000 đồng, L cầm tiền trên tay trái rồi lấy ma túy trong túi quần bên trái cầm trên tay trái để đưa cho Tú thì bị cơ quan Công an phát hiện và bắt quả tang, thu giữ tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở công an làm việc.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Lvà Hoàng Văn M đã khai nhận hành vi như trên.

Triệu Tiến M khai nhận mua ma túy của một người trên mạng xã hội Facebook với giá 3.000.000 đồng mục đích để sử dụng và bán cho người khác để kiếm lời. Tuy nhiên, M không biết tên tuổi địa chỉ, nhân thân lai lịch của người bán. Người bán thuê Grab giao ma túy đến tận nhà cho M. Khi L bảo có người muốn mua ma túy cần sa, M đã bán cho L số ma túy trên với giá 800.000 đồng. Sau khi bán được cho Tú, L sẽ trả tiền cho M số tiền 800.000 đồng.

Nguyễn Văn Th khai nhận bản thân không sử dụng ma túy nhưng do tò mò nên định mua ma túy của Nguyễn Thị Lvề sử dụng. Tuy nhiên, Tú chưa mua được ma túy nên không đủ căn cứ để xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với người bán ma túy cho Triệu Tiến M, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave màu đen xám BKS: 29T1 – 872.68, số khung RLHJA3915KY172575, số máy JA39E1028767 thu giữ của Nguyễn Thị Ngọc L, quá trình điều tra xác minh xác định người đứng tên đăng ký xe trên là Nguyễn Thị Ngọc L, tra cứu xe máy không có trong dử liệu xe vật chứng. Về nguồn gốc, chiếc xe trên là do chị Nguyễn Thị O (sinh năm 1979. HKTT: số nhà 18 ngõ 1 Lương Văn Q, phường I, quận H, Hà Nội – là mẹ đẻ của Nguyễn Thị Ngọc L) mua cho L vào tháng 6/2019 với giá 18.000.000 đồng để L sử dụng. L sử dụng xe máy trên để đi bán ma túy nên tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng hồng đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao: 0329882744 và số tiền 400.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị Ngọc L, 01 điện thoại di động kiểu dáng Oppo màu vàng đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0383729532 thu giữ của Hoàng Văn M, 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia màu xám xanh đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0966899583 thu giữ của Nguyễn Văn Th, 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao: 0888095420 thu giữ của Triệu Tiến M là tài sản của các đối tượng đã sử dụng vào việc phạm tội, tiếp tục tạm giữ xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Hoàng Văn M và Triệu Tiến M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng số 276/CT-VKS ngày 8/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố. Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L, Hoàng Văn M và Triệu Tiến M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Căn cứ tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt:

Bị cáo Triệu Tiến M mức án từ 26 đến 30 tháng tù Bị cáo Nguyễn Thị L mức án từ 26 đến 30 tháng tù Bị cáo Hoàng Văn M mức án từ 24 đến 26 tháng tù Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án, đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy cần sa đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thị Lvà giám định viên; 01 (một) lọ thủy tinh trong suốt cao khoảng 10 cm bên trong chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký của Triệu Tiến M và giám định viên.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng hồng đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao 0329882744; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Oppo màu vàng đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0383729532; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Nokia màu xám xanh đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0966899583; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao: 0888095420 và số tiền 400.000 đồng, các bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua, bán ma túy .

- Đối với chiếc 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Wave màu đen xám, lắp BKS: 29T1 – 872.68, đăng ký xe đướng tên bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L. Xe đứng tên bị cáo L, bị cáo sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy cho tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình, đã khai báo thành khẩn, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của bị cáo và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên và của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và vật chứng có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 05 phút ngày 24/6/2020, tại trước cổng trường Đại học Công nghiệp, thuộc phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, tổ công tác đội CSĐTTP về ma túy – Công an quận Bắc Từ Liêm phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị L và Hoàng Văn M đang bán trái phép 3,833 gam ma túy cần sa cho đối tượng Nguyễn Văn Th. Mở rộng điều tra vụ án, xác định số ma túy trên là do Triệu Tiến M bán cho Nguyễn Thị Ngọc L. Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp và thu giữ tại số nhà 09 ngõ 66B đường Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội của Triệu Tiến M số ma túy cần sa có khối lượng: 19,265 gam, bị cáo M khai số ma túy bị cáo bán cho L và số ma túy thu giữ tại nhà bị cáo M là do bị cáo mua của một người trên mạng xã hội Facebook với giá 3.000.000 đồng mục đích để sử dụng và bán cho người khác để kiếm lời. Hành vi của các bị cáo Triệu Tiến M, Nguyễn Thị Lvà Hoàng Văn M đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3]Xét tính chất hành vi phạm tội:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm sức khoẻ của con người; hành vi của các bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo là thanh niên có sức khỏe, nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là pháp luật nghiêm cấm, đặc biệt là bị cáo L đã từng bị xử lý hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy nhiên do không chịu lao động và học tập mà ăn chơi đua đòi sử dụng ma túy, do không có tiền tiêu sài bị cáo L đã đi mua ma túy Cần sa của bị cáo M và rủ bị cáo Nam cùng đi bán ma túy cần sa cho đối tượng Nguyễn Văn Th nhằm mục đích thu lợi bất chính. Vì vậy cần phải ra một bản án phạt tù nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử. Vì vậy giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Để cá thể hóa hình phạt đối với từ bị cáo trong vụ án này, Hội đồng xét xử xét các bị cáo phạm tội có đồng phạm, đối với bị cáo L là người rủ rê lôi kéo bị cáo Nam đi bán ma túy, mặt khác bị cáo L còn có một tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chưa hết thời hạn. Do đo mức hình phạt của bị cáo L phải cao hơn mức hình phạt dành cho bị cáo M.

Đối với bị cáo M ngoài việc bán cho bị cáo L 3,833 gam ma túy cần sa, cơ quan điều tra còn thu giữ tại nhà riêng của Triệu Tiến M 19,265 gam, bị cáo M khai số ma túy trên bị cáo dụng để sử dụng và nếu ai hỏi mua bị cáo sẽ bán kiếm lời. Do đó Hội đồng xét xử xét mức hình phạt đối với bị cáo L và bị cáo M là ngang nhau và cao hơn so với bị cáo Nam.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

- Về Nhân thân: Bị cáo M và bị cáo Nam chưa có tiền án, tiền sự và lần đầu bị đưa ra xét xử.

- Nhân thân bị cáo L có một tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chưa hết thời hiệu.

- Về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: Xét bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy cần sa đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thị Lvà giám định viên;

01 (một) lọ thủy tinh trong suốt cao khoảng 10 cm bên trong chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký của Triệu Tiến M và giám định viên. Xác định đây là vật cấm sử dụng và lưu hành. Vì vật cho tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng hồng đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao 0329882744; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Oppo màu vàng đã qua sử dụng, lắp số thuê bao:

0383729532; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Nokia màu xám xanh đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0966899583; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao:

0888095420, các bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua, bán ma túy và số tiền 400.000đ các bị cáo sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy cho tịch thu sung công quỹ nhà nước - Đối với chiếc 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Wave màu đen xám, lắp BKS: 29T1 – 872.68, đăng ký xe đướng tên bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L. Nguồn gốc là do mẹ bị cáo mua cho bị cáo. Vì vậy xác định đây là tài sản của bị cáo. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe máy này để mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy cho tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Triệu Tiến M, Nguyễn Thị L và Hoàng Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Xử phạt bị cáo Triệu Tiến M 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 6 năm 2020.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 6 năm 2020.

3. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn M 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 6 năm 2020.

- Áp dụng Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Áp dụng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy cần sa đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thị L và giám định viên; 01 (một) lọ thủy tinh trong suốt cao khoảng 10 cm bên trong chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký của Triệu Tiến M và giám định viên.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu trắng hồng đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao 0329882744; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Oppo màu vàng đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0383729532; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Nokia màu xám xanh đã qua sử dụng, lắp số thuê bao: 0966899583; 01 (một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 Plus màu xám đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình, lắp số thuê bao: 0888095420, các bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua, bán ma túy và số tiền 400.000đ các bị cáo sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) xe máy kiểu dáng Honda Wave màu đen xám, lắp BKS: 29T1-872.68, đăng ký xe đướng tên bị cáo Nguyễn Thị Ngọc L.

(Vật chứng trên được xử lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 28./21, ngày 4 tháng 11 năm 2020 giữa Cơ quan CSĐT công an quận Bắc Từ Liêm với Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm).

3. Án phí: Các bị cáo Triệu Tiến M, Nguyễn Thị L và Hoàng Văn M, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan của Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống M hợp lệ Bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 296/2020/HS-ST

Số hiệu:296/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;