Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 27/2022/HS-PT NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/7/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử phúc thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 25/2022/TLPT-HS ngày 09/6/2022, do có kháng cáo của bị cáo Bùi Công T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Bùi Công T, sinh ngày 03/02/1973 tại huyện B, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Tổ A, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Viết T, sinh năm 1946 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1947 (đều đã chết); có vợ là Lê Thị V, sinh năm 1967 và có 01 con sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 28/11/2001 bị Tòa án nhân dân Quận M, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (theo Bản án số 632/HSST).

- Ngày 08/8/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (theo Bản án số 53/2006/HSST).

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/5/2021. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang. Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác: Không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 06/5/2021, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hà Giang phối hợp với Công an thị trấn V, huyện B phát hiện Hoàng Minh H1, sinh năm 1991, trú tại thôn L, xã T, huyện Q, tỉnh Hà Giang có nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện trong túi quần bên phải H1 đang mặc có 01 chiếc xi lanh loại 3cc đã qua sử dụng và 01 thẻ uống thuốc Methadome số thẻ 2010500108 mang tên Hoàng Minh H1. Tổ công tác đã mời H1 lên Công an thị trấn V, huyện B để làm việc, xét nghiệm chất ma túy trong nước của H1 có kết quả dương tính với ma túy. Quá trình làm việc Hoàng Minh H1 khai: Khoảng 07 giờ 45 phút, ngày 06/5/2021 H1 rủ Hoàng Trọng K, sinh năm 1978, trú tại tổ B, thị trấn V, huyện B góp số tiền là 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để mua ma túy của Bùi Công T, sinh năm 1973, trú tại tổ A, thị trấn V, huyện B. Khi đi đến nhà T, K đứng ngoài chờ còn H1 một mình vào nhà T. H1 đi vào gian phòng thờ thì gặp T và Dương Phúc Q, sinh năm 1979, trú tại tổ C, thị trấn V, huyện B. Lúc đó H1 nghe thấy Q có hỏi T mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) ma túy Heroine và 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) ma túy đá (Methanphetamine) nên H1 cũng hỏi T mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) ma túy Heroine, T đồng ý. Q, H1 đưa tiền cho T, T cầm tiền rồi đi vào trong buồng ngủ lấy ra đưa cho H1 và Q mỗi người 01 gói ma túy loại Heroin được gói bằng nilon màu đen. H1 cầm lấy gói ma túy loại Heroin rồi đi ra ngoài cùng K đi tìm chỗ vắng người rồi sử dụng hết số ma túy vừa mua của T bằng cách tiêm Heroine vào tĩnh mạch, sau khi sử dụng xong ma túy H1 vừa đi ra ngoài thì bị lực lượng Công an phát hiện.

Tiến hành lấy lời khai của Dương Phúc Q cũng khai nhận: Khoảng 08 giờ, ngày 06/5/2021 Q đi một mình đến nhà T thì gặp T ở gian phòng thờ lúc đó H1 cũng vào gian phòng thờ nhà T, Q hỏi T mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) ma túy Heroine và 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) ma túy đá (Methanphetamine), thì H1 cũng hỏi mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) ma túy Heroine, T đồng ý. Quý, H1 đưa tiền cho T, T cầm tiền rồi đi vào trong buồng ngủ lấy ra đưa cho Q và H1 mỗi người 01 gói ma túy loại Heroin được gói bằng nilon màu đen. H1 cầm lấy gói ma túy loại Heroin rồi đi ra ngoài, T quay lại phòng ngủ lấy ra một gói ma túy đá (Methanphetamine) đưa cho Q, sau khi mua được ma túy Q đi về và sử dụng hết số ma túy đã mua được của Thức. Xét nghiệm chất ma túy trong nước tiểu của Q có kết quả dương tính với ma túy.

Căn cứ lời khai của Hoàng Minh H1, Dương Phúc Q, hồi 18 giờ 00 ngày 06/5/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang đã tiến hành ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Bùi Công T, thu tại túi quần phía sau của Thức đang mặc số tiền 7.080.000đ (bảy triệu không trăm tám mươi nghìn đồng).

Hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Công T.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Công T khai nhận: Cuối năm 2020 Thức có quen một người đàn ông tên là H2, nhà ở khu vực ngã ba thị trấn Đ, huyện Đ đường đi Y, qua trình quen biết H2 giới thiệu có ma túy bán và cho T số điện thoại để liên lạc. Do T là người nghiện ma túy, nên sau khi có số điện thoại, T đã liên hệ và mua ma túy của H2 nhiều lần mục đích để sử dụng và bán cho các con nghiện khác. Vào khoảng thời gian tháng 12/2020, tháng 2/2021, tháng 3/2021 và vào ngày 03/5/2021 T đã đi một mình đến gặp H2 tại khu vực ngã ba đường quốc lộ 2 đi tỉnh Y, thuộc địa phận giáp ranh giữa xã N và thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ để mua ma túy Heroine 04 lần (lần 1 mua 5.000.000đ (năm triệu đồng), lần 2 và lần 3 mỗi lần mua 10.000.000đ (mười triệu đồng), lần 4 mua 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) và 01 lần trên đường về đến khu vực ngã ba đường đôi thuộc địa phận xã L, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, T đã mua 4.000.000đ (bốn triệu đồng) ma túy đá Methamphetamine của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ. Sau khi mua được ma túy, T mang về cất giấu tại nhà của mình tại buồng ngủ và nhà kho, T chia số ma túy đã mua được thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và để bán.

Ngoài lần bán ma túy cho Hoàng Minh H1, Dương Phúc Q vào ngày 06/5/2021 được tổng số tiền 1.150.000đ (một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) ra trong tháng 3 và tháng 4 năm 2021 Bùi Công T và các đối tượng đều thừa nhận được mua bán ma túy với Thức nhiều lần tại gian phòng thờ của nhà T cụ thể:

- Bán ma túy 03 lần cho Nguyễn Khắc T, sinh năm 1990, trú tại tổ B, thị trấn V, huyện B, mỗi lần bán một gói ma túy Heroine với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

- Bán 03 lần cho Bàn Đức T, sinh năm 1989, trú tại tổ D, thị trấn V, huyện B, mỗi lần bán một gói ma túy Heroine với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

- Bán 01 lần cho Đỗ Lưu K, sinh năm 1969, trú tại thôn P, xã Q, huyện B một gói ma túy Heroine với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) - Bán 03 lần cho Hoàng Minh H, sinh năm 1991, trú tại thôn L, xã T, huyện Q, tỉnh Hà Giang, mỗi lần bán một gói ma túy Heroine với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

- Bán 03 lần cho Dương Phúc Q, sinh năm 1979, trú tại tổ C, thị trấn V, huyện B, mỗi lần bán một gói ma túy Heroine với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

- Ngày 04/5/2021, T bán 01 gói ma túy đá (Methanphetamine) với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) cho Trần Khánh L, sinh năm 1998, trú tại thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Hà Giang.

Ngày 07/5/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng mẫu vật thu giữ của Bùi Công T:

* Tại phong bì thứ nhất ghi “Tang vật thu giữ khi khám xét chỗ ở của Bùi Công T ngày 06/5/2021 trong túi xách giả da trong phòng ngủ", bên trong phong bì có 05 gói nilon:

+ Gói thứ nhất bên trong có chứa chất bột màu trắng, dạng cục, khối lượng là 0,30 gam, ký hiệu A1.

+ Gói thứ 2 bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, khối lượng là 0,45 gam, ký hiệu A2.

+ Gói thứ 3 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, khối lượng là 1,13 gam, ký hiệu A3.

+ Gói thứ 4 bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, khối lượng là 0,21 gam, kỷ hiệu A4.

+ Gói thứ 5 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, khối lượng là 0,11 gam, ký hiệu A5.

* Tại phong bì thứ hai ghi "Tang vật thu giữ khi khám xét chỗ ở của Bùi Công T ngày 06/5/2021 trong ví giả da trong phòng ngủ", bên trong phong bì có 01 gói nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,12 gam, ký hiệu A6.

* Hộp giấy niêm phong bên ngoài ghi “Tang vật thu giữ ngày 07/5/2021 tại chỗ ở của Bùi Công T thuộc tổ 5, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang" Bên trong hộp giấy có:

+ 01 gói giấy có dòng kẻ màu xanh bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 12,50 gam, ký hiệu A7.

+ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 4,56 gam, ký hiệu A8.

* Tại 01 ống kim loại hình trụ tròn màu vàng đồng, kích thước 7,5 x 05 cm, bên trong có chứa 11 gói nilon, cụ thể:

+ Gói thứ nhất bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng có khối lượng 3,69 gam, ký hiệu A9.

+ Gói thứ 2 bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,43 gam, ký hiệu A10.

+ Gói thứ 3 bên trong có chứa chất bột trắng dạng cục có khối lượng 0,12 gam, ký hiệu A11.

+ Gói thứ 4 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,25 gam, ký hiệu A12.

+ Gói thứ 5 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,23 gam, ký hiệu A13.

+ Gói thứ 6 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,26 gam, ký hiệu A14.

+ Gói thứ 7 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,25 gam, ký hiệu A15.

+ Gói thứ 8 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,25 gam, ký hiệu A16 + Gói thứ 9 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,29 gam, ký hiệu A17.

+ Gói thứ 10 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,29 gam, ký hiệu A18.

+ Gói thứ 11 bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục có khối lượng 0,28 gam, ký hiệu A19.

Tại bản kết luận giám định số 222/KL-PC09 ngày 13/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an Hà Giang kết luận:

- Chất bột màu trắng dạng cục gửi giám định ký hiệu A1, A3, A5, A7, A8, A11, A12, A13, A14, A15, A16, A17, A18, A19 là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 20,82g (hai mươi phẩy tám mươi hai gam).

Heroine nằm trong danh mục I, mục IA, STT 9, Nghị định 73/2018/NĐ - CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- Chất tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu A2 là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 0,45g (không phẩy bốn mươi lăm gam).

Ketamine nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ - CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- Chất tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu A4, A6, A9, A10 là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 4,45g (bốn phẩy bốn mươi lăm gam).

Methamphetamine nằm trong danh mục II, mục IIC, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ - CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Ngày 14/5/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang đã quyết định khởi tố vụ án hình sự. Ngày 07/6/2021, Cơ quan cánh sát điều tra Công an tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 80, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang giám định số tiền 7.080.000đ (Bảy triệu không trăm tám mươi nghìn đồng) thu giữ của Bùi Công T.

Tại bản kết luận giám định số: 259/KL-PC09 ngày 09/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang kết luận: 23 (hai mươi ba) tờ tiền Việt Nam gửi giám định đều là tiền thật.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số vật chứng và tài sản để phục vụ cho công tác điều tra. Sau khi xem xét thấy một số tài sản không liên quan đến vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, các vật chứng còn lại đã chuyển sang cơ quan thi hành án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Bùi Công T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; các điều 38, 50; đoạn 1 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Bùi Công T. Xử phạt bị cáo T 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giam (ngày 06/5/2021).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/5/2022, bị cáo Bùi Công T có đơn kháng cáo với nội dung: mức hình phạt 11 năm tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là quá cao, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Công T giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của vụ án và nhận định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bùi Công T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, mức hình phạt 11 (mười một) năm tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần.

Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Công T, giữ nguyên mức hình phạt tù đối với bị cáo. Về án phí bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/5/2022 bị cáo Bùi Công T có đơn kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo đúng theo quy định tại các Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên kháng cáo của bị cáo được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận để xem xét.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Bùi Công T xác nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bị cáo không kháng cáo về tội danh và điều luật áp dụng.

[3] Về nội dung kháng cáo: Bị cáo T kháng cáo cho rằng mức hình phạt 11 (mười một) năm tù cấp sơ thẩm đã tuyên là quá cao vì trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, hợp tác với cơ quan điều tra và mẹ của bị cáo được tặng huy chương kháng chiến nên đề nghị xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

[4] Đối với kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Ngày 06/5/2021 bị cáo bị bắt quả tang đang bán ma túy cho 02 người. Sau khi khám xét còn phát hiện bị cáo đã bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người. Ngoài ra, khi khám xét còn thu giữ các chất ma túy là Heroine, Ketamine, Methamphetamine có tổng khối lượng 25,72gam đây là các tình tiết định khung quy định tại các điểm b, c, p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bùi Công T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

[5] Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, vi phạm pháp luật, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, mặt khác góp phần tiếp tay làm gia tăng tệ nạn sử dụng ma tuý và tội phạm khác ở địa phương, gây mất an ninh trật tự, gây xôn xao dư luận, khiến quần chúng nhân dân bất bình lên án, bị cáo đã bị xử phạt về hành vi này: Năm 2001 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận M, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và năm 2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như vậy bị cáo là người có nhân thân xấu. Sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo không lấy đó làm bài học ăn năn, hối cải mà lại tiếp tục thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

[6] Với các tình tiết, căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy mức hình phạt 11 năm tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[7] Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm vợ của bị cáo là Lê Thị V có giao nộp kỷ niệm chương vì sức khỏe cộng đồng và giấy xác nhận bị cáo đi từ thiện tại miền trung năm 2020 các tình tiết này chỉ là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt với bị cáo T là phù hợp, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[8] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo cần giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tại phiên tòa hôm nay là phù hợp các quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Bùi Công T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Công T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 28/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Giang.

Căn cứ điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; các điều 38, 50; đoạn 1 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Công T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo T 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giam (ngày 06/5/2021).

3. Về án phí: Bị cáo Bùi Công T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-PT

Số hiệu:27/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;