Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 266/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 266/2021/HS-ST NGÀY 08/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 841/2021/HSST ngày 03 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4295/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Thị H; giới tính: nữ; sinh năm: 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: BT/H ĐĐ, Phường MB, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: không có; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông LH (chết) và bà Nguyễn TB; hoàn cảnh gia đình: có chồng (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: không có.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 11/3/2021 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

Người bào chữa: Bà Trần Thị C - Luật sư Công ty Luật TNHH N và cộng sự thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 01/2021, Lê Thị H bắt đầu mua ma túy của đối tượng tên G (không rõ lai lịch) để về bán lại kiếm lời. H đã 04 lần mua ma túy của đối tượng G, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất và lần thứ hai, lần lượt vào các ngày 08/02/2021 và 20/02/2021 tại khu vực cầu số 6 Hoàng Sa, thuộc địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, H mua tổng cộng 10 gói ma túy với giá 3.000.000 đồng. H bán lại với giá 350.000 đồng/gói, thu lợi 1.000.000 đồng.

- Lần thứ 3: Ngày 09/3/2021, H tiếp tục mua của G 10 gói ma túy và được G trả công thêm 03 gói do trước đó H có giữ giúp G 50gram ma túy đá.

- Lần thứ 4: Ngày 10/3/2021, H mua của G 01 gói ma túy giá 2.000.000 đồng. Ngoài ra, G còn đưa cho H 100 gram ma túy và 02 cân điện tử nhờ H giữ, khi nào có khách đặt mua G sẽ đến lấy.

Ngày 11/3/2021, H lấy 13 gói ma túy đã mua của G ngày 09/3/2021 đem đi bán thì bị phát hiện bắt quả tang trước nhà số 875 C, Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Thu giữ trong hộc để đồ phía trước xe gắn máy biển số 78H1-xxxxx, H đang điều khiển tổng cộng 14,3610 gram Methamphetamine.

Khám xét nơi ở của H tại số BT/H ĐĐ, Phường MB, quận TB phát hiện: Trên bàn gỗ trong phòng ngủ 01 gói nylon chứa tinh tể không màu qua giám định là ma túy đá loại Methamphetamine, khối lượng 7,9248 gram; trong hộc tủ nhựa tại phòng ngủ thu 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy đá loại Methamphetamine, khối lượng 99,8990 gram.

Tại bản cáo trạng số 366/CT-VKS-P1 ngày 14/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố nêu quan điểm luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng. Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lê Thị H 20 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng truy tố đối với bị cáo. Về mức hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình có khó khăn nhất định, hiện là lao động chính để giảm nhẹ một phần hình phạt đồng thời miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư và bị cáo không có có ý kiến hoặc khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản thu giữ vật chứng, biên bản ghi lời khai người làm chứng và các biên bản hoạt động điều tra khác có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 11/3/2021 tại trước nhà số 875 C, Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an bắt quả tang Lê Thị H đang trên đường đi bán ma túy, thu giữ ma túy đá loại Methamphetamine bị cáo cất giấu trên xe gắn máy biển số 78H1-xxxxx. Ngoài ra, Công an còn thu giữ nhiều ma túy đá loại Methamphetamine, cân điện tử và túi nylon tại nơi ở của bị cáo số BT/H ĐĐ, Phường MB, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. Số ma túy trên bị cáo thừa nhận mua của đối tượng G (không rõ lai lịch) về phân nhỏ nhằm mục đích bán lại kiếm lời.

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, gieo rắc nọc độc, làm tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo tham gia mua bán ma túy, khi bị bắt quả tang và qua khám xét thu giữ tổng cộng 122,1848 gram ma túy đá loại Methamphetamine nên cần áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo với mức án tương xứng.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên giảm cho bị cáo một mức hình phạt như lời bào chữa của luật sư là có căn cứ.

Ngoài hình phạt chính, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung khoản tiền nhất định để nộp Ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Ma túy là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Bịch nylon không còn giá trị sử dụng nên bị tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu Ngân sách Nhà nước.

- Xe gắn máy biển số 78H1-xxxxx hiệu Honda Vision thu giữ của bị cáo, qua kiểm tra số khung, số máy không có trên hệ thống lưu trữ, quản lý của Công an. Xe gắn máy này bị cáo sử dụng vận chuyển ma túy đi bán nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước. Riêng biển số xe 78H1-xxxxx, kết quả xác minh được cấp cho xe gắn máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, không phải biển số gốc của xe gắn máy đã thu giữ của bị cáo nên tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 5.000.000 đồng thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Lê Thị H 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/3/2021.

Buộc bị cáo H nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 5.000.000 đồng.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói giấy có ghi vụ số 1740/21 được niêm phong sau giám định có chữ ký của giám định viên Bùi Công D; cán bộ điều tra Lê Xuân L, bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định, khối lượng 13.7267 gram.

+ 01 gói giấy có ghi vụ số 1741/21 gói 1 được niêm phong sau giám định có chữ ký của giám định viên Bùi Công D; cán bộ điều tra Lê Xuân L, bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định, khối lượng 7.6256 gram.

+ 01 gói giấy có ghi vụ số 1741/21 gói 2 được niêm phong sau giám định có chữ ký của giám định viên Bùi Công D; cán bộ điều tra Lê Xuân L, bên trong là chất ma túy còn lại sau giám định, khối lượng 99.443 gram.

+ Biển số xe 78H1-xxxxx.

+ 01 bịch nylon bên trong có chứa 20 gói nylon nhỏ chưa qua sử dụng.

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có imei: 354138632576724.

+ 01 xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu: không xác định; số loại: không xác định; dán đề can Vision; dung tích xilanh: không xác định; số khung: RLHJF5801EY513223; số máy: JF58E-0398971 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).

+ 01 cân điện tử màu xám trắng; 01 cân điện tử hiệu Amput.

* Trả lại cho bị cáo Lê Thị H số tiền 5.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/353 ngày 20/8/2021 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền ngày 23/3/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh nộp vào Kho bạc Nhà nước Quận 10).

Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 266/2021/HS-ST

Số hiệu:266/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;