Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 26/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 22/2021/HSST ngày 25 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HS ngày 12-4-2021 đối với các bị cáo:

1. LÊ TIẾN PH, sinh năm 1994 tại Phú Yên.

Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ngọc A, sinh năm 1973 và bà Trần Thị T, sinh năm 1976; Có vợ tên Đinh Thị Ngọc S, sinh ngày 16-11-2003 và có 01 con sinh năm 2020;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17-12-2020, đến ngày 23-12-2020 chuyển sang tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Thuận.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. TRẦN THỊ THANH P, sinh 26-7-2003 tại Ninh Thuận.

Nơi ĐKHKTT: Khu 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Thanh V, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974; Chưa có chồng con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17-12-2020, đến ngày 23-12-2020 chuyển sang tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Thuận.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Trần Thị Thanh P: Ông Trần Thanh V, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974 - Là cha mẹ ruột của bị cáo; Nơi cư trú: Khu 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Thanh P: Ông Trần Đăng K – Luật sư, Văn phòng luật sư T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận. Có mặt.

- Đại diện chính quyền địa phương nơi bị cáo Trần Thị Thanh P sinh hoạt: Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận - Ông Trần Ngọc H - Công chức. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Kiều Tiểu M, sinh năm 1991. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã A, huyện N, tỉnh Ninh Thuận 2. Ông Đỗ Tuấn K, sinh năm 1969. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Mai Hạnh N, sinh năm 1992. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn A, xã A, huyện N, tỉnh Ninh Thuận

2. Bà Nguyễn Hồng Bảo C, sinh năm 2000. Vắng mặt. Nơi cư trú: Thôn L, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Thuận

3. Ông Võ Chí T, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận

4. Ông Lê Hồng S, sinh năm 1998. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận

5. Ông Lê Hoàng H, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận

6. Ông Nguyễn Quốc P, sinh năm 1977. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Khu 1, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giữa Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P có mối quan hệ tình cảm yêu đương nhau. Để có ma tuý sử dụng và bán kiếm lời, nên vào đầu tháng 12-2020, Ph và Phát đã góp số tiền 2.600.000 đồng mua được 02 viên loại MDMA và 02 túi nilon loại Ketamine của một người tên H ở quận B, thành phố H. Sau khi mua xong P và Ph mang về Ninh Thuận mục đích để sử dụng và bán cho người khác, P vẫn bọc sẵn số ma tuý trên theo người. Đến khoảng 21 giờ ngày 16-12- 2020, Ph dùng xe mô tô biển số 85B1-398. chở P mang số ma tuý trên đến thôn P, xã P, huyện N để gặp một người tên H lấy tiền thì bị Công an huyện N nghi vấn và kiểm tra.

Trong quá trình kiểm tra P làm rơi 01 gói giấy màu trắng bên trong có 02 viên nén hình lục giác màu xanh, 02 gói nilon trong suốt miệng kín có chứa chất rắn màu trắng thì Công an bắt quả tang. Công an N đã tạm giữ của P: 01 gói giấy màu trắng bên trong có 02 viên nén hình lục giác màu xanh, 02 gói nilon trong suốt miệng kín có chứa chất rắn màu trắng, số tiền: 373.000 đồng; 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Iphone số Imei: 357307093626321 có gắn sim: 0974.702.884. Tạm giữ của Lê Tiến Ph gồm: Số tiền 31.276.000 đồng; 01 điện thoại di động Iphone số Imei: 356659081157627, gắn sim số: 0989479636; 01 xe mô tô 85B1-398.83, số khung RLCSE9210FY042949, số máy E3R7E- 042959.

Vào lúc 9 giờ 35 phút ngày 17-12-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã tiến hành khám xét chỗ ở của Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P tại Nhà trọ P thuộc khu 1, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận tạm giữ:

+ 01 túi zip bên trong chứa 48 viên nén màu xanh hình lục giác, một mặt kí hiệu đầu lâu, một mặt ký hiệu “qp”; 24 túi zip bên trong có chất rắn màu trắng; 01 túi zip bên trong có chứa chất rắn màu trắng; 1/4 viên nén màu xanh;

01 cân tiểu ly màu đen; 01 ống hút nhựa màu xanh trắng cắt vát nhọn một đầu ống hút; 01 bịch nilon màu trắng trong suốt bên trong có nhiều túi zip chưa sử dụng; 01 tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng được cuốn thành dạng ống, ở 2 đầu bọc vỏ đầu lọc thuốc lá.

Tại Bản kết luận giám định số 15/KLGĐ- PC09 ngày 21-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận:

Chất rắn màu trắng chứa trong 02 túi nilon dán kín miệng được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS4A - 089925 (ký hiệu M1.1) gửi đến giám định là chất ma tuý, loại Ketamine. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M1.1 là 0,6621g; 02 viên nén màu xanh hình lục giác được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS4A- 089925 (ký hiệu M1.2) gửi đến giám định là chất ma tuý, loại MDMA. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M1.2 là 0,7239 g; 48 viên nén màu xanh hình lục giác được niêm phong có mã số NS4A-089907 (ký hiệu M2) gửi đến giám định là ma tuý, loại MDMA. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M2 là 16,8434 g; Chất rắn màu trắng được chứa trong 24 (hai mươi bốn) túi Zip, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS4A-089928 (ký hiệu M3) gửi đến giám định là chất ma tuý, Ketamine. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M3 là: 7,8027g; Chất rắn màu trắng được chứa trong túi zip, được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS4A- 089967 (ký hiệu M4) gửi đến giám định là chất ma tuý, loại Ketamine. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M4 là: 15,3867g; ¼ (một phần tư) viên nén màu xanh được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS4A - 089915 (Ký hiệu M5) gửi đến giám định là chất ma tuý loại MDMA. Khối lượng của mẫu gửi đến giám định ký hiệu M5 là: 0,0894g.

Hoàn lại đối tượng sau giám định:

Khối lượng còn lại sau giám định là: M1.1: 0,6107g; M1.2: 0,3651g; M2: 15,5259g; M3: 6,7219g; M4: 13,8804g; M5: đã sử dụng hết trong quá trình giám định, tiến hành hoàn trả cùng với bao gói gửi đến giám định.

Quá trình điều tra chứng minh được từ tháng 11-2020 đến tháng 12-2020, Ph và P góp tiền chung vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người tên H ở quán Karaoke ở quận B và Ph trực tiếp nhiều lần vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người tên T tại quán bar 85 quận G, thành phố Hồ Chí Minh mua ma tuý loại MDMA và Ketamine, với tổng số tiền 47.750.000 đồng về sử dụng và phân ra bán lẻ cho Nguyễn Hồng Bảo Ch, Mai Hạnh Ng, Võ Chí T trên địa bàn thành phố P tổng số 05 lần/05 viên loại MDMA và 04 gói loại Ketamin, thu lợi bất chính số tiền 5.750.000 đồng, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Trong tháng 11-2020 Lê Tiến Ph, mua 04 viên ma tuý loại MDMA và 04 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng bột loại Ketamine với số tiền: 4.700.000 đồng. Sau khi mua ma tuý về, P bán cho Nguyễn Hồng Bảo Ch 01 viên loại MDMA và 01 gói nilon ma tuý dạng bột loại Ketamine với số tiền 1.350.000 đồng; bán cho Ng 01 viên loại MDMA và 01 gói ma tuý dạng bột loại Ketamine với số tiền 1.350.000 đồng. Ph và P thu lợi bất chính số tiền 2.700.000 đồng.

Lần thứ hai: Trong tháng 11-2020, Lê Tiến Ph mua 04 viên ma tuý loại MDMA và 04 gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng bột loại Ketamine với số tiền: 4.700.000 đồng. Sau khi mua ma tuý về khoảng đầu tháng 12-2020, P bán cho Ch 01 viên loại MDMA với số tiền 350.000 đồng; Khoảng đầu tháng 12- 2020 P bán cho Ng 01 viên loại MDMA và 02 gói ny lon bên trong chứa chất rắn dạng bột loại Ketamine với số tiền 2.350.000 đồng. P bán cho T 01 viên loại MDMA với số tiền 350.000 đồng. Sau khi có ma tuý thì T cùng với Lê Hoàng H, Nguyễn Hồng S sử dụng chung hết. Sau khi bán ma tuý cho Ch, Ng, T thì P và Ph thu lợi bất chính số tiền 3.050.000 đồng.

Lần thứ ba: Lê Tiến Ph mua 03 viên ma tuý loại MDMA và 01 gói ny lon bên trong chứa ma tuý dạng bột loại Ketamine của một người nam có Zalo “Binhduong” tại khu vực Bảo tàng 16/4 với số tiền 2.750.000 đồng. Sau khi mua ma tuý được Ph mang về sử dụng và không bán cho ai khác.

Lần thứ tư: Vào đầu tháng 12-2020, Ph và P đã góp số tiền 2.600.000 đồng mua được 02 viên loại MDMA và 02 túi nylon loại Ketamine của một người tên H ở quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi mua xong Ph và P mang về Ninh Thuận mục đích để sử dụng và bán cho người khác, P vẫn bọc sẵn số ma tuý trên theo người chưa kịp bán cho người khác thì bị bắt quả tang.

Lần thứ năm: Khoảng đầu tháng 12-2020 Lê Tiến Ph mua 50 viên ma tuý loại MDMA và 02 gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng bột loại Ketamine với số tiền: 33.000.000 đồng. Ph đã bán cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) 02 viên với số tiền 600.000 đồng tại khu vực Bảo tàng 16/4 thuộc địa phận thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Số ma tuý còn lại bị Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện N thu giữ khi khám xét khẩn cấp tại phòng trọ của Ph và P ngày 17- 12-2020.

Ngoài ra Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph khai nhận còn bán cho các đối tượng không rõ nhân thân lai lịch cụ thể như sau:

1. Trần Thị Thanh P bán cho một người tên Ph không rõ nhân thân lai lịch ở khu vực thôn M, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Thuận 02 lần vào Khoảng giữa tháng 11-2020 và đầu tháng 12-2020 Phi bán cho Phong 03 viên loại MDMA và 02 gói ma tuý dạng bột loại Ketamimne, với số tiền 3.900.000 đồng.

2. Trần Thị Thanh P bán cho một người tên H 01 lần/ 01 viên tại thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận vào đầu tháng 12-2020 với số tiền 350.000 đồng.

- Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P không có tình tiết tăng nặng.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Lê Tiến Ph, Trần Thị Thanh P đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tự thú khai ra các lần phạm tội trước đó. Riêng bị cáo Trần Thị Thanh P được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ người phạm tội khi đang ở độ tuổi vị thành niên.

- Về thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ gồm:

+ Đối với các mẫu còn lại M1.1: 0,6107g; M1.2: 0,3651g; M2: 15,5259g; M3: 6,7219g; M4: 13,8804g; M5: đã sử dụng hết trong quá trình giám định, tiến hành hoàn trả cùng với bao gói gửi đến giám định; 26 túi zip nhỏ, 03 túi zip lớn; 01 ống hút nhựa màu xanh trắng cắt vát nhọn một đầu ống hút; 01 bịch nilon màu trắng trong suốt bên trong có nhiều túi zip chưa sử dụng. Đây là ma tuý và dụng cụ dùng vào việc mua bán trái phép chất ma tuý, đề nghị tịch thu tiêu huỷ.

+ 01 cân điện tử màu đen; 01 loa nhạc màu xám, model: NE-106; 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Iphone, có số Imei: 356695081157627, gắn sim số 0989.479.636; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, có số Imei:357307093626321, có gắn sim số 0974.702.884. Đây là dụng cụ phương tiện của các bị cáo Trần Thị Thanh P, Lê Tiến Ph dùng vào mục đích sử dụng và mua bán trái phép chất ma tuý, nên đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ 01 xe mô tô biển số 85B1- 398.83, nhãn hiệu YAMAHA NOUVO, số khung: RLCSE9210FY04249, số máy: E3R7E- 042959. Hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách hồ sơ cùng xe mô tô trên tiếp tục điều tra xác minh, khi nào xác định được chủ sở hữu sẽ xử lý sau.

Hiện số vật chứng trên được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện Ninh Phước.

+ Số tiền: 20.000 đồng tạm giữ khi khám xét chỗ ở của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph. Xác định đây là tiền Ph dùng làm dụng cụ sử dụng trái phép chất ma tuý, nên đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Tạm giữ của Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P số tiền: 31.649.000 đồng (Số tiền của Ph là: 31.276.000 đồng, trong đó: 2.800.000 đồng tiền thu lợi bất chính do P và Ph bán ma tuý mà có; số tiền của P là: 373.000 đồng). Quá trình mua bán trái phép chất ma tuý Ph và P thu lợi số tiền 5.750.000 đồng, tiêu xài còn lại 2.800.000 đồng. Vì vậy buộc Ph và P phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền: 2.950.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 31.649.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Số tiền trên đang được nộp vào Tài khoản Công an huyện N mở tại Kho bạc Nhà nước huyện N.

Đối với Mai Hạnh Ng, Võ Chí T, Lê Hồng S, Lê Hoàng H có hành vi mua ma túy của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph về sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử phạt hành chính là có căn cứ. Riêng Nguyễn Hồng Bảo Ch có hành vi mua ma túy từ Trần Thị Thanh P, nhưng Ch đã bị Công an phường Đ, thành phố P ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Hồng Bảo Ch, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử phạt hành chính đối với Ch là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Quốc P không biết việc Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph sử dụng phòng trọ nhà mình làm địa điểm mua bán trái phép chất ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ.

Theo lời khai của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph bán ma túy cho một người tên H, P và một người đàn ông khác không rõ nhân thân lai lịch, nhưng hiện nay các đối tượng trên không xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với một người tên T, H và người có tài khoản Zalo “Binhduong” đã có hành vi bán ma túy cho Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P trên địa bàn quận G, quận B, thành phố Hồ Chí Minh và địa bàn thành phố P, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thông báo chuyển cho Công an quận G, quận B, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố P, tỉnh Ninh Thuận để biết điều tra theo thẩm quyền.

Đối với bị cáo Lê Tiến Ph có hành vi quan hệ tình dục với Đinh Thị Ngọc S (Sinh ngày: 26-11-2003, trú tại: Khu phố 8, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận) và có con chung Đinh Đinh Hạ B, sinh ngày: 19-8-2020. Tại thời điểm sinh cháu Đinh Đinh Hạ B thì Đinh Thị Ngọc S có độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 17 tuổi, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T kiểm tra xác minh theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bản Cáo trạng số 10/CT-VKS-HS, ngày 22 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận truy tố các bị cáo Lê Tiến Ph, Trần Thị Thanh P theo quy định tại Điểm b, c, p Khoản 2 Điều 251 về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51, 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Tiến Ph từ 05 năm đến 06 năm tù;

Áp dụng: Điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51, 54; Điều 90, 91, 101 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Thị Thanh P từ 03 năm đến 04 năm tù; Đề nghị xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp theo quy định pháp luật.

- Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với nội dung của bản cáo trạng cũng như quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo Trần Thị Thanh P: Tại thời điểm phạm tội bị cáo Trần Thị Thanh P là người dưới 18 tuổi nhận thức pháp luật, xã hội còn hạn chế; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú quy định tại các điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nh m mục đích giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt cho bị cáo Trần Thị Thanh P được hưởng mức án thấp nhất của Viện kiểm sát đề nghị.

- Kiểm sát viên không tranh luận với người bào chữa. Các bị cáo không có tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thấy hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật, các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Tiến Ph, Trần Thị Thanh P khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác thu thập tại hồ sơ vụ án trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, nên có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi cụ thể như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 11-2020 đến ngày 16-12-2020, góp tiền chung với Trần Thị Thanh P mua ma túy của một người tên Hảo, Lê Tiến Ph còn trực tiếp nhiều lần vào quán bar 85 ở quận G, thành phố Hồ Chí Minh mua ma tuý của một người tên Trung loại MDMA và Ketamine với tổng số tiền 47.750.000 đồng đem về chia nhỏ thành nhiều tép để sử dụng và bán lại cho người khác, cụ thể: P trực tiếp bán 05 lần/05 viên MDMA, 4 gói Ketamine (Trong đó: Bán cho Nguyễn Hồng Bảo Ch 02 lần/02 viên MDMA và 01 gói Ketamine; bán cho Mai Hạnh Ng 02 lần/02 viên MDMA và 03 gói Ketamine;

bán cho Võ Chí T 01 lần/ 01 viên MDMA, tại phiên tòa các bị cáo Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P khai nhận trong một ngày vừa bán ma túy cho Mai Hạnh Ng, vừa bán ma túy cho Nguyễn Hồng Bảo Ch, sau đó bán tiếp cho Võ Chí T) đã thu lợi bất chính số tiền 5.750.000 đồng. Tổng số ma túy khi bắt quả tang và khám xét khấp cấp tại phòng của Ph và P là ma túy loại MDMA trọng lượng: 17,6567 gam; loại Ketamine trọng lượng: 23,8515 gam.

Đây là vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy” do Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P thực hiện. Ph là người đã thành niên, P là người chưa thành niên (17 tuổi 03 tháng 10 ngày), nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội P có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận truy tố các bị cáo Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P phạm tội theo quy định tại Điểm b, c, p Khoản 2 Điều 251 về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi trên của các bị cáo Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác và làm lan tràn tệ nạn nghiện ma túy, nhất là hiện nay loại tội phạm này đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc nh m răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn. Hội đồng xét xử phân tích vai trò của từng bị cáo:

- Đối với bị cáo Lê Tiến Ph là người thực hành tích cực nhất.

Phát là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có ma túy sử dụng và thu lợi bất hợp pháp, nên vẫn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo là người bỏ tiền và trực tiếp đi mua ma túy về giao cho Trần Thị Thanh Phí bán; đồng thời Phát bán ma túy cho người khác khi Phi không có mặt và giữ tiền có được khi mua ma túy. Cụ thể:

Để có ma tuý sử dụng và bán kiếm lời nên vào đầu tháng 12-2020, Ph và P đã góp số tiền 2.600.000 đồng mua được 02 viên loại MDMA và 02 túi nylon loại Ketamine của một người tên H ở quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi mua xong Ph và P mang về Ninh Thuận mục đích để sử dụng và bán cho người khác.

Đồng thời, cũng trong khoản thời gian từ tháng 11-2020 đến tháng 12- 2020 thì Ph và P góp tiền chung vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người tên H ở quán Karaoke ở quận B và Ph trực tiếp nhiều lần vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người tên Tr tại quán bar 85 quận G, thành phố Hồ Chí Minh mua ma tuý loại MDMA và Ketamine, với tổng số tiền 47.750.000 đồng về sử dụng và phân ra bán lẻ cho Nguyễn Hồng Bảo Ch, Mai Hạnh Ng, Võ Chí T trên địa bàn thành phố P tổng số 05 lần/ 05 viên loại MDMA và 04 gói loại Ketamin, thu lợi bất chính số tiền 5.750.000 đồng; ngoài ra còn bán ma túy cho P, H.

Đến khoảng 21 giờ ngày 16-12-2020, Ph dùng xe mô tô 85B1-398. chở P mang số ma tuý trên đến thôn P, xã P, huyện N để gặp một người tên H lấy tiền thì bị Công an huyện N nghi vấn kiểm tra, bắt quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ninh Phước đã tiến hành khám xét chỗ ở của Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P tại Nhà trọ P thuộc khu phố 1, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận tạm giữ nhiều vật chứng liên quan đến ma túy.

Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết này để có mức án phù hợp đối với bị cáo Lê Tiến Ph.

- Đối với bị cáo Trần Thị Thanh P cũng là người thực hành tích cực:

Phi là người dưới 18 tuổi, nhưng quen biết với nhiều người nghiện ma túy, nên là người trực tiếp liên hệ, bán ma túy cho các con nghiện. Cụ thể:

Để có ma tuý sử dụng và bán kiếm lời nên vào đầu tháng 12-2020, P và Ph đã góp số tiền 2.600.000 đồng mua được 02 viên loại MDMA và 02 túi nylon loại Ketamine của một người tên H ở quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi mua xong P và Ph mang về Ninh Thuận mục đích để sử dụng và bán cho người khác, P vẫn bọc sẵn số ma tuý trên theo người. Đến khoảng 21 giờ ngày 16-12- 2020 Ph dùng xe mô tô 85B1-398 chở P mang số ma tuý trên đến thôn P, xã P, huyện N để gặp một người tên H lấy tiền thì bị Công an huyện N nghi vấn và kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra P làm rơi 01 gói giấy màu trắng bên trong có 02 viên nén hình lục giác màu xanh, 02 gói nilon trong suốt miệng kín có chứa chất rắn màu trắng thì Công an bắt quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã tiến hành khám xét chỗ ở của Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P tại Nhà trọ P thuộc khu phố 1, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận tạm giữ nhiều vật chứng liên quan đến ma túy. Ngoài lần bị bắt quả tang, P còn bán ma túy cho P, H.

Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết này để có mức án phù hợp đối với bị cáo Trần Thị Thanh P.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự thú quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; nên Hội đồng xét xử xem xét hình phạt phù hợp đối với các bị cáo Lê Tiến Ph, Trần Thị Thanh P. Riêng Trần Thị Thanh P được áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; cần áp dụng Điều 54 cho các bị cáo hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.

Riêng bị cáo Trần Thị Thanh P khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi. Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 về nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nh m mục đích giáo dục, giúp họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội”;

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Xét quan điểm của người bào chữa: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo: Tại thời điểm phạm tội bị cáo Trần Thị Thanh P là người dưới 18 tuổi nhận thức pháp luật, xã hội còn hạn chế; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự thú quy định tại các điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án phù hợp là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Xét quan điểm của Viện Kiểm sát về việc định tội và định khung hình phạt đối với các bị cáo Lê Tiến Ph, Trần Thị Thanh P, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, quan điểm về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] - Về thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ gồm:

+ Đối với các mẫu ma túy còn lại sau khi giám định M1.1: 0,6107g; M1.2: 0,3651g; M2: 15,5259g; M3: 6,7219g; M4: 13,8804g; M5: đã sử dụng hết trong quá trình giám định, tiến hành hoàn trả cùng với bao gói gửi đến giám định; 26 túi zip nhỏ, 03 túi zip lớn; 01 ống hút nhựa màu xanh trắng cắt vát nhọn một đầu ống hút; 01 bịch nilon màu trắng trong suốt bên trong có nhiều túi zip chưa sử dụng. Đây là ma tuý và dụng cụ dùng vào việc mua bán trái phép chất ma tuý, đề nghị tịch thu tiêu huỷ.

+ 01 cân điện tử màu đen; 01 loa nhạc màu xám, model: NE-106; 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Iphone, có số Imei: 356695081157627, gắn sim số 0989.479.636; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, có số Imei:357307093626321, có gắn sim số 0974.702.884. Đây là dụng cụ phương tiện của các bị cáo Trần Thị Thanh P, Lê Tiến Ph dùng vào mục đích sử dụng và mua bán trái phép chất ma tuý, nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Hiện số vật chứng trên được bảo quản tại Kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Phước.

+ 01 xe mô tô biển số 85B1- 398.83, nhãn hiệu YAMAHA NOUVO, số khung: RLCSE9210FY04249, số máy: E3R7E- 042959. Hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách hồ sơ cùng xe mô tô trên tiếp tục điều tra xác minh, khi nào xác định được chủ sở hữu sẽ xử lý sau.

+ Số tiền: 20.000 đồng tạm giữ khi khám xét chỗ ở của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph. Xác định đây là tiền Ph dùng làm dụng cụ sử dụng trái phép chất ma tuý, nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

+ Tạm giữ của Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P số tiền: 31.649.000 đồng (Số tiền của Ph là: 31.276.000 đồng, trong đó: 2.800.000 đồng tiền thu lợi bất chính do P và Ph bán ma tuý mà có; số tiền của P là: 373.000 đồng). Quá trình mua bán trái phép chất ma tuý Ph và P thu lợi số tiền 5.750.000 đồng, tiêu xài còn lại 2.800.000 đồng. Vì vậy buộc Ph và P phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền: 2.950.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 31.649.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Số tiền trên đang được nộp vào Tài khoản Chi cục thi hành án dân sự huyện N mở tại Kho bạc Nhà nước huyện N.

Đối với Mai Hạnh Ng, Võ Chí T, Lê Hồng S, Lê Hoàng H có hành vi mua ma túy của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph về sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử phạt hành chính là có căn cứ. Riêng Nguyễn Hồng Bảo Ch có hành vi mua ma túy từ Trần Thị Thanh P, nhưng Ch đã bị Công an phường Đ, thành phố P ra Quyết định xử phạt hành chính, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử phạt hành chính đối với Nguyễn Hồng Bảo Ch là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Quốc P không biết việc Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph sử dụng phòng trọ nhà mình làm địa điểm mua bán trái phép chất ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ.

Theo lời khai của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph bán ma túy cho một người tên H, P và một người đàn ông khác không rõ nhân thân lai lịch, nhưng hiện nay các đối tượng trên không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với một người tên T, H và người có tài khoản Zalo “Binhduong” đã có hành vi bán ma túy cho Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P trên địa bàn quận Gò Vấp, quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh và địa bàn thành phố P, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo chuyển cho Công an quận G, quận B, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố P để biết điều tra theo thẩm quyền.

Đối với bị can Lê Tiến Ph có hành vi quan hệ tình dục với Đinh Thị Ngọc S và có con chung Đinh Đinh Hạ B, sinh ngày: 19-8-2020. Tại thời điểm sinh cháu Đinh Đinh Hạ B thì Đinh Thị Ngọc S có độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 17 tuổi, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T kiểm tra xác minh theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tiến Ph và Trần Thị Thanh P đều phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào: Điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; Điểm s, r khoản 1 Điều 51, 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Lê Tiến Ph 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17-12-2020.

Căn cứ vào: Điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; Điều 17, Điều 38; Điều 90, Điều 91, Điều 101; Điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thanh P 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17-12-2020.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) gói giấy màu trắng được niêm phong trong túi niêm phong có mã số NS4A 089900 (Đây là các mẫu ma túy còn lại sau giám định M1.1:

0,6107g; M1.2: 0,3651g; M2: 15,5259g; M3: 6,7219g; M4: 13,8804g; M5: đã sử dụng hết trong quá trình giám định);

+ 01 (một) túi niêm phong mã số PS3 1906196 bên trong có 26 túi zip nhỏ, 03 túi zip lớn;

+ 01 (một) ống hút nhựa màu xanh trắng cắt vát nhọn một đầu ống hút được niêm phong trong bì thư;

+ 01 bịch nilon màu trắng trong suốt, bên trong có nhiều túi zip chưa sử dụng, được niêm phong trong túi có mã số PS3A 061874;.

- Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ 01 (một) cân điện tử màu đen được niêm phong trong bì thư;

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, có số Imei:357307093626321, có gắn sim số 0974.702.884, được niêm phong trong bì dán kín miệng;

+ 01 (một) điện thoại di động cảm ứng hiệu Iphone, có số Imei:

356695081157627, gắn sim số 0989.479.636, được niêm phong trong bì dán kín miệng;

+ 01 (một) loa nhạc màu xám, hiệu JBZ, model: NE-106, được niêm phong b ng giấy A4 Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23-02-2021 giữa Công an huyện Ninh Phước và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Phước.

+ Số tiền 20.000 đồng tạm giữ khi khám xét chỗ ở của Trần Thị Thanh P và Lê Tiến Ph, đây là tiền Phát dùng làm dụng cụ sử dụng trái phép chất ma tuý.

+ Buộc Lê Tiến Ph phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma tuý mà có số tiền 2.875.000đ (1.475.000 đồng + 1.400.000 đồng). Tiếp tục tạm giữ số tiền 31.276.000 đồng để đảm bảo thi hành án; Trả lại cho Lê Tiến Ph số tiền còn lại 28.401.000đ.

+ Buộc Trần Thị Thanh P phải nộp sung quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma tuý mà có số tiền 2.875.000đ (1.475.000 đồng + 1.400.000 đồng). Tiếp tục tạm giữ số tiền 373.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Theo giấy ủy nhiệm chi ngày 25-02-2021 giữa Công an huyện Ninh Phước với Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Phước;

Về án phí:

Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt các bị cáo, người bào chữa, đại diện hợp pháp của bị cáo Phi, quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26-4-2021). Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 26/2021/HS-ST

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;