Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 26/2020/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 31 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 03 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST -HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Ngọc H; giới tính: Nữ; sinh ngày 28 tháng 03 năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 04/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Con ông Nguyễn Văn L (chết) và bà Thạch N; Chồng Nguyễn Ngọc T (chết); có 02 con sinh năm 1999 và sinh năm 2016; Tiền án: Ngày 26/08/2016, Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số 103/2016/HSST) và Ngày 15/9/2016, Tòa án nhân dân Quận 4 xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số 109/2016/HSST); Chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/7/2019; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 16/10/2019. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/10/2019, Nguyễn Ngọc H đi bộ ra khu vực kho 5, Phường 18, Quận 4 gặp một người phụ nữ (khoảng 40 tuổi, không rõ lai lịch) hỏi mua 2.000.000 đồng ma túy. Sau khi mua được ma túy, H mang về nhà phân ra 30 đoạn ống nhựa màu đỏ và 33 đoạn ống nhựa màu hồng chứa ma túy để bán cho con nghiện với giá 50.000 đồng/01 đoạn ống nhựa màu đỏ, 70.000 đồng/01 đoạn ống nhựa màu hồng.

Sáng ngày 16/10/2019, H ngồi trước nhà số Đường A, Phường B, Quận C đợi con nghiện đến mua và H đã bán 02 đoạn ma túy trong ống nhựa màu đỏ được 100.000 đồng cho 01 con nghiện và bán 03 đoạn ma túy trong ống nhựa màu hồng được 210.000 đồng cho 01 con nghiện khác. Còn lại 28 đoạn ma túy trong ống nhựa màu đỏ và 30 đoạn ma túy trong ống nhựa màu hồng, H đựng trong 01 túi vải màu đỏ cùng với 310.000 đồng, H để trong túi giấy màu xanh có ghi chữ Sannest đặt sát bên người phía tay trái của H đang ngồi để tiếp tục chờ con nghiện đến mua. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày 16/10/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 4 cùng với Công an Phường 13, Quận 4 tuần tra đến trước nhà số Đường A, Phường B, Quận C phát hiện H đang ngồi trước cửa có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện sát bên người phía tay trái của H đang ngồi có 01 túi giấy màu xanh có ghi chữ Sannest bên trong có 310.000 đồng và 01 túi vải màu đỏ đựng 28 đoạn ống nhựa màu đỏ và 30 đoạn ống nhựa màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi vấn là ma túy, nên Công an thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H.

Theo Kết luận giám định số 1938/KLGĐ-H ngày 25/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 30 đoạn ống nhựa màu hồng là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,3435gram, loại Heroine; Bột màu trắng trong 28 đoạn ống nhựa màu đỏ là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,2996gram, loại Heroine.

Quá trình điều tra, Nguyễn Ngọc H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nêu trên. H khai đã bán cho 02 con nghiện vào ngày 16/10/2019 thu lợi bất chính 310.000 đồng. Do chỉ có lời khai của H, không xác định được con nghiện đã mua ma túy của H, không thu được vật chứng, chỉ có lời khai của H, nên chưa đủ căn cứ để xử lý H phạm tội nhiều lần.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho H do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4 không có cơ sở để xử lý.

Vật chứng của vụ án: 01 gói niêm phong ghi số vụ 1938 là ma túy của H còn lại sau giám định; 01 túi giấy màu xanh có ghi chữ Sannest; Số tiền là 310.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu WING màu trắng xanh đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen đã qua sử dụng.

Tại Bản cáo trạng số 15/CT -VKS ngày 03/03/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội „Mua bán trái phép chất ma túy‟ theo quy định khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Ngọc H có lời khai phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, bản thân bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, nên xin Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm tù; Buộc bị cáo nộp số tiền 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước; Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi số vụ 1938 là ma túy của H còn lại sau giám định và 01 túi giấy màu xanh có ghi chữ Sannest; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền là 310.000 đồng; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu WING, màu trắng xanh; 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại Cơ quan điều tra c ng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 12 giờ ngày 16/10/2019, trước nhà số Đường A, Phường B, Quận C bị cáo H bị bắt quả tang đang cất giấu trái phép chất ma túy với số lượng là 1,6431gram, loại Heroine, nhằm mục đích bán cho người khác.

Ngoài ra, bị cáo H c ng khai nhận sáng ngày 16/10/2019, H đã bán 02 đoạn ma túy trong ống nhựa màu đỏ được 100.000 đồng cho 01 con nghiện và bán 03 đoạn ma túy trong ống nhựa màu hồng được 210.000 đồng cho 01 con nghiện khác, thu lợi được số tiền từ 310.000 đồng. Tuy nhiên, ngoài lời khai của bị cáo thì trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào chứng minh cho hành vi này, nên chưa đủ căn cứ để truy tố bị cáo phạm tội hai lần trở lên.

Xét hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 là có căn cứ.

[3]. Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đây là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi của mình bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo v n cố ý thực hiện. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo c ng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng hình cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích, mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý được xem là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử xét quyết định phạt tiền bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi số vụ 1938 là ma túy của H còn lại sau giám định và 01 túi giấy màu xanh có ghi chữ Sannest, xét đây là vật cấm tàng trữ và vật dụng đựng ma túy, nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với số tiền là 310.000 đồng là tiền mua bán ma túy mà có, nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu WING, màu trắng xanh đã qua sử dụng, số Imei 1: 864863041897295, Imei 2: 864863041897303 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen đã qua sử dụng, số Imei 1: 861795044624974, Imei 2: 861795044624966, xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Nguyễn Ngọc H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2019.

Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Buộc bị cáo nộp phạt số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi số vụ 1938 là ma túy của H còn lại sau giám định và 01 túi giấy màu xanh bên ngoài có ghi chữ Sannest đã qua sử dụng;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu WING, màu trắng xanh đã qua sử dụng, số Imei 1: 864863041897295, Imei 2: 864863041897303 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu đen đã qua sử dụng, số Imei 1: 861795044624974, Imei 2: 861795044624966;

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền là 310.000 (ba trăm mười nghìn) đồng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4 và Giấy nộp tiền vào kho bạc Nhà nước ngày 23/12/2019).

- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

2. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 26/2020/HS-ST

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;