Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 22/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯỚNG HOÁ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2021/TLST-HS ngày 11/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:

Ai T, tên gọi khác: Pả K, sinh ngày 10/12/1975 tại K-Đ; nơi ĐKNKTT: Thôn X, xã T, huyện H, tỉnh Q; chỗ ở: Thôn T 1, xã T, huyện H, tỉnh Q; nghề nghiệp: Làm rẩy; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Vân kiều; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Pá N (đã chết) và bà Pí N; Có vợ Mó C (đã ly hôn); Có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm: 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/10/2020, tạm giam từ ngày 10/10/2020 tại nhà tạm giữ Công an huyện H, tỉnh Q cho đến nay; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Ai T: Bà Dương Thị L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Q; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1 Anh Hồ Văn L, sinh năm: 1986, nơi cư trú: Thôn T1, xã T, huyện H, tỉnh Q; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Hồ A C, sinh năm: 1989, nơi cư trú: Thôn TX, xã HL, huyện H, tỉnh Q; vắng mặt.

Anh Hồ Văn H, sinh năm: 1977, nơi cư trú: Thôn T2, xã T, huyện H, tỉnh Q; vắng mặt.

Anh Hồ Văn C1, sinh năm: 1991, nơi cư trú: Thôn T3, xã T, huyện H, tỉnh Q; vắng mặt.

- Người phiên dịch: Ông Hồ Xuân L, nơi cư trú: Khối 3b, thị trấn Khe Sanh, huyện H, tỉnh Q; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 15 phút ngày 01/10/2020, tại km 1+600 đường Tỉnh lộ 586 thuộc địa phân thôn L Thành, xã Tân L, huyện H, Đồn biên phòng xã Thuận phối hợp với lực lượng chức năng phát hiện Ai T, sinh năm 1975, trú tại thôn X , xã TL, huyện H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu sơn xanh, không gắn biển kiểm soát; số khung RLHHC090X3Y525540, số máy HC09E-0525348 từ ngã ba Tân L, huyện H đi vào xã Thuận có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng phương tiện để kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong ốp nhựa tại vị trí giữa đồng hồ hiển thị tốc độ xe máy và đèn pha trước của xe mô tô do T điều khiển có 01 gói bên ngoài là ni long không màu trong suốt, tiếp theo là 02 mãnh ni long màu đen chia thành 02 lớp, bên trong có 01 gói ni long màu xanh dạng túi Zip chứa nhiều viên nén màu hồng và màu xanh hình trụ tròn, nghi là ma túy tổng hợp nên đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ số viên nén nói trên (được niêm phong trong một phong bì ký hiệu M01).

Kết luận giám định số 762/KLGĐ ngày 05/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận:

Các viên nén màu hồng, hình trụ tròn được niêm phong vào phong bì màu trắng, ký hiệu M01 có khối lượng 17,2703g là ma túy loại Methamphetamine.

03 viên nén màu xanh hình trụ tròn được niêm phong vào phong bì màu trắng ký hiệu M01 có khối lượng 0,2800g không tìm thấy các chất ma túy thường gặp trong 03 viên nén màu xanh.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Quá trình điều tra Ai T khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 01/01/2020, T đến nhà anh Hồ Văn L ở thôn T1, xã T, huyện H, tỉnh Q mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu sơn xanh, không gắn biển kiểm soát số khung: RLHHC090X3Y525540; số máy HC09E-0525348 đi lên thị trấn Lao Bảo. Sau đó đi theo đường tiểu ngạch gần khu vực cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo đến bản Sa Mun, huyện Sê pôn, tỉnh Savannakhet, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, T gặp một người đàn ông tên Chay và trả nợ cho người này số tiền 2.000.000đồng, là tiền T mua nợ ma túy trước đó, đồng thời hỏi mua thêm 01 gói ma túy nữa rồi đưa 4.000.000đồng cho Chay. Chay nhận tiền và nói với T 2.000.000đồng mua được 01 gói ma túy (khoảng 200 viên) rồi mượn xe mô tô của T để đi lấy ma túy. Khoảng 15 phút sau Chay quay lại trả xe và nói với T là ma túy được cất giấu trong đầu xe, nghe vậy T biết ma túy được dấu trong đầu xe mô tô của mình nên nhận và điều khiển xe về Việt Nam theo đường cũ thì bị bắt.

Ngoài lần phạm tội nói trên Ai T còn khai nhận và có đủ cơ sở kết luận: Trong quãng thời gian từ đầu năm 2019 cho đến khi bị phát hiện, T đã nhiều lần mua ma túy dạng viên nén màu hồng hình trụ tròn, trên bề mặt các viên nén có dập chữ WY của một số người không rõ lai lịch mỗi lần 200 viên ma túy với giá 2.000.000đồng sau đó bán cho các đối tượng nghiện trên địa bàn cụ thể:

Ngày 28/9/2020 bán cho Hồ Văn H, sinh năm 1977 ở thôn T2, xã T, huyện H 01 viên ma túy với giá 40.000đồng.

Ngày 28/9/2020 bán cho Hồ X, sinh năm 1990 ở thôn T2, xã T, huyện H 01 viên ma túy với giá 50.000đồng.

Ngày 29/9/2020 bán cho Hồ Văn C1, sinh năm 1991 ở thôn T3, xã T, huyện H 01 viên ma túy với giá 40.000đồng.

Ngày 01/10/2020 bán cho Hồ A C, sinh năm 1989 ở xã HL, huyện H 02 viên ma túy với giá 100.000đồng.

Ngoài ra T còn bán ma túy cho nhiều người nhưng T không biết tên và địa chỉ.

Vật chứng, đồ vật tạm giữ:

- Tạm giữ 01 bao ni long màu xanh dạng túi Zíp chứa các viên nén màu hồng và xanh, hình trụ tròn; 01 mãnh ni long không màu, trong suốt; 02 mãnh ni long màu đen; sau giám định hoàn lại trong 01 túi niêm phong, có chữ ký PS 3A104788.

Tạm giữ của Ai T 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA Wave màu sơn xanh, không gắn biển kiểm soát, số khung HC090X3Y-525540, số máy HC09E-0525348, xe đã qua sử dụng.

Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 0104595 do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh thừa thiên Huế cấp ngày 08/3/2005 ghi tên chủ xe chiếc xe mô tô nói trên là Nguyễn Ngọc Dũng, cư trú tại: 9/110 L Duẫn, thành phố Huế. Anh Dũng khai đã bán chiếc xe mô tô đó cho một người không quen biết vào năm 2015.

Anh Hồ Văn L, ở T1, xã T, huyện H đã mua chiếc xe mô tô nói trên tại tiệm cầm đồ ở thị trấn Khe Sanh, huyện H vào năm 2015 nhưng không nhớ tên và địa chỉ. Quá trình sử dụng L đã làm mất biển số xe và chưa làm thủ tục sang tên đối với chiếc xe đã mua. Ngày 01/10/2020 Ai T đã mượn chiếc xe của anh Hồ Văn L tuy nhiên anh L không biết T sử dụng chiếc xe mô tô để thực hiện hành vi phạm tội.

Bản cáo trạng số: 24/CT-VKSHH ngày 10 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Ai T về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ai T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ai T từ 07 năm đến 08 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định trong 01 túi niêm phong ký hiệu PS3A104788.

Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để trả lại cho anh Hồ Văn L 01 chiếc xe mô tô hiệu HONDA Wave, màu sơn xanh, không gắn biển kiểm soát, số khung HC090X3Y- 525540, số máy HC09E-0525348, xe đã qua sử dụng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; buộc bị cáo Ai T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Những người làm chứng đều khai nhận đã mua ma túy từ Ai T để sử dụng đúng như lời khai của bị cáo Ai T.

Người bào chữa cho bị cáo Ai T trình bày lời bào chữa: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ai T từ 05 năm đến 06 năm tù.

Bị cáo Ai T trình bày lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với kết quả điều tra và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án đã xác định được vào ngày 01/10/2020 tại thôn L Thành, xã Tân L, huyện H, bị cáo Ai T bị Đồn biên phòng Thuận phối hợp với lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang cất giấu trong ốp nhựa tại vị trí giữa đồng hồ hiển thị tốc độ xe máy và đèn pha trước của xe mô tô do T điều khiển 01 gói ni long màu xanh dạng túi Zip chứa nhiều viên nén màu hồng và màu xanh hình trụ tròn (được niêm phong trong một phong bì ký hiệu M01) để sử dụng và bán kiếm lời.

Kết luận giám định số 762/KLGĐ ngày 05/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận:

Các viên nén màu hồng, hình trụ tròn được niêm phong vào phong bì màu trắng, ký hiệu M01 có khối lượng 17,2703g là ma túy loại Methamphetamine.

03 viên nén màu xanh hình trụ tròn được niêm phong vào phong bì màu trắng ký hiệu M01 có khối lượng 0,2800g không tìm thấy các chất ma túy thường gặp trong 03 viên nén màu xanh.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Quá trình điều tra Ai T còn khai nhận và có đủ cơ sở kết luận trong khoảng thời gian từ đầu năm 2019 cho đến khi bị phát hiện, Ai T đã nhiều lần mua ma túy dạng viên nén màu hồng hình trụ tròn, trên bề mặt các viên nén có dập chữ WY về bán cho các đối tượng trên địa bàn, cụ thể: Ngày 28/9/2020 bán cho Hồ Văn H, sinh năm 1977 ở thôn T2, xã T, huyện H 01 viên ma túy với giá 40.000đồng; Ngày 28/9/2020 bán cho Hồ X, sinh năm 1990 ở thôn T2, xã T, huyện H 01 viên ma túy với giá 50.000đồng; Ngày 29/9/2020 bán cho Hồ Văn C1, sinh năm 1991 ở thôn T3, xã T, huyện H 01 viên ma túy với giá 40.000đồng; Ngày 01/10/2020 bán cho Hồ A C, sinh năm 1989 ở xã Hướng Lộc, huyện H 02 viên ma túy với giá 100.000đồng.

Những người làm chứng đều khai nhận đã mua ma túy dạng viên nén có dập chữ WY tại bị cáo Ai T để sử dụng phù hợp với lời khai của bị cáo.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận hành vi mua ma túy để bán lại cho người khác để kiếm lời của bị cáo Ai T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với hai tình tiết định khung là “Phạm tội 02 lần trở lên” và “...Methamphetamine...có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Đối với 03 viên nén màu xanh có khối lượng 0,2800gam, không tìm thấy chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy nên không xem xét.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội rõ ràng, quá trình điều tra đã khai nhận hành vi mua bán ma túy trước đó vào khoảng thời gian từ đầu năm 2019 cho đến ngày bị bắt khi chưa bị phát hiện nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” và “người phạm tội tự thú” được quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy bị cáo được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 nhưng lại phạm tội với hai tình tiết định khung nên không được áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo với mức án khởi điểm của khung hình phạt được áp dụng và buộc bị cáo phải chấp hành tại cơ sở giam giữ mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Ai T mua và bán ma túy với số lượng lớn và nhiều lần trong thời gian dài; vì vậy, căn cứ khoản 5 Điều 251 BLHS, phạt bổ sung buộc bị cáo Ai T phải nộp 5.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

[5] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông tên Chay đã bán ma túy cho Ai T không xác định được lai lịch, cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục phối hợp xác minh làm rõ.

Đối với hành vi mua ma túy để sử dụng của các đối tượng Hồ Văn H, Hồ X, Hồ A C, Hồ Văn C1, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H đã có công văn yêu cầu Công an xã Hướng Lộc và xã Thuận xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì ký hiệu PS3A104788 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q là vật cấm lưu hành. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu sơn xanh, không gắn biển kiểm soát, số khung HC090X3Y-525540, số máy HC09E-0525348, xe đã qua sử dụng, kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy: số 0104595 ngày 08/3/2005 do Phòng cảnh sát giao thông Công an thừa thiên Huế cấp cho chủ xe là Nguyễn Ngọc Dũng là xe của anh Hồ Văn L mua lại nhưng chưa sang tên. Anh Hồ Văn L cho bị cáo Ai T mượn xe nhưng không biết Ai T đã sử dụng vào việc phạm tội nên căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để trả lại cho anh Hồ Văn L.

Vật chứng hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/3/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Ai T phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51;

khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố: Bị cáo Ai T, (tên gọi khác: Pả K) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Ai T 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 01/10/2020.

Phạt bị cáo Ai T phải nộp 5.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản liên quan đến vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì ký hiệu PS3A104788 có đóng dấu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q.

Trả lại cho anh Hồ Văn L 01 chiếc xe mô tô hiệu HONDA Wave, màu sơn xanh, không gắn biển kiểm soát, số khung HC090X3Y-525540, số máy HC09E- 0525348, xe đã qua sử dụng.

Vật chứng hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/3/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Ai T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 29/3/2021. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 22/2021/HS-ST

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hướng Hóa - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;