Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 21/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TX, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 14 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TX xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2021/TLST- HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

1.Nguyễn Văn Ch(tên gọi khác: Nguyễn Văn Tr) - sinh năm 1985 tại xã TT, huyện TX, tỉnh T; Trú tại: thôn TL, xã TT, huyện TX, tỉnh T; Chỗ ở hiện nay: thôn TL, xã VX, huyện TX, tỉnh T; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;Con ông Nguyễn Thế S và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chung sống như vợ chồng với Phạm Thị H và có 01 con chung sinh năm 2017.

Tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 31/7/2020 bị Chủ tịch UBND xã VX xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2020 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T (Có mặt);

2.Những người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn T – sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn QT1, xã XB, huyện TX, tỉnh T.

Hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh T(vắng mặt).

- Anh Hà Văn Th – sinh năm 1996.

Trú tại: Thôn BN, xã XL, huyện TX, tỉnh T(có mặt).

- Anh Vi Văn Th - sinh ngày 21/5/2003.

Trú tại: Thôn BT, xã XL, huyện TX, tỉnh T. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ ngày 02/12/2020, tại thôn TS 2, thị trấn TX, huyện TX, tỉnh T, Công an huyện TX phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính đối với Hà Văn Th, sinh năm 1996, trú tại thôn BN, xã XL, huyện TX và Vi Văn Th sinh ngày 21/5/2003, trú tại thôn TB, xã XL, huyện TX về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tại Công an huyện TX, Hà Văn Th và Vi Văn Th khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 02/12/2020 Th đi xe mô tô BKS 82B1 – xxxx chở Vi Văn Th đi từ xã XL đến thị trấn TX để Th đón xe khách đi Hải Phòng, trên đường đi Vi Văn Th nói với Hà Văn Th “Có làm tí không” (tức là sử dụng trái phép chất ma túy”, Th đồng ý nên Th đưa cho Th 200.000đ để mua ma túy sử dụng chung. Khi đi đến cầu TL, xã VX thì Th dừng xe lại và lấy điện thoại có số thuê bao 0965.804.xxx của Th gọi đến số thuê bao 0964.063.xxx của Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1985 ở thôn TL, xã VX để hỏi mua ma túy khoảng 04 giây rồi tắt máy. Khoảng 02 phút sau thì Ch gọi lại cho Th; lúc này Th hỏi Ch: “Anh còn hàng không bán cho em hai trăm”(tức là còn ma túy không bán cho Th); Ch trả lời “ok”. Hà Văn Th điều kiển xe mô tô chở Vi Văn Th đi tiếp khoảng 50m thì gặp Nguyễn Văn Ch điều khiển xe mô tô Honda Vision, biển kiểm soát 36M1 – xxxxx đi ngược chiều. Thấy Nguyễn Văn Ch vẫy tay thì Th quay đầu xe đi song song, sau đó Ch và Th đều dừng xe mô tô lại. Khi đó, xe mô tô của Ch vẫn nổ máy, Ch vẫn ngồi trên xe mô tô còn Th và Th đi lại gần Nguyễn Văn Ch. Lúc này Hà Văn Th đưa cho Nguyễn Văn Ch tờ tiền mệnh giá 200.000đ, còn Ch nhả 01 gói ma túy ngậm trong miệng và đưa cho Hà Văn Th, sau khi mua bán xong thì Ch điều khiển xe mô tô đi về nhà, Th và Th đi đến khu vực thôn TS 2, thị trấn TX để sử dụng ma túy thì bị Cơ quan điều tra bắt quả tang. Công an huyện TX đã thu giữ 01 điện thoại Nokia màu đen có số thuê bao 0965804xxx của Hà Văn Th.

Tiếp đó vào hồi 18 giờ 15 phút ngày 02/12/2020 tại thôn TL, xã VX, huyện TX, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TX bắt quả tang Nguyễn Văn T sinh năm 1992, trú tại thôn QT, xã XB, huyện TX đang tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ màu đen bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn, T khai nhận là Heroine. Quá trình điều tra xác định: Hồi 16 giờ 03 phút 43 giây ngày 02/12/2020 T sử dụng điện thoại có số thuê bao 0379.275.xxx gọi điện đến số thuê bao 0964.063.xxx của Nguyễn Văn Ch ở thôn TL, xã VX, hỏi Ch còn ma túy không bán cho T 500.000đ(năm trăm nghìn đồng), Ch trả lời “Còn, lên mà lấy”. Sau đó T điều khiển xe mô tô BKS 36D1 – xxxxx đi đến cầu thôn TL, xã VX và sử dụng điện thoại có số thuê bao 0379.275.xxx gọi vào số thuê bao 0964.063.xxx của Nguyễn Văn Ch và nói “em đến cầu rồi anh ra đi”, Ch trả lời “chờ tí anh ra”. Khoảng 05 phút sau Ch đi xe mô tô Honda Vision BKS 36M1 – xxxxx ra chỗ T đang đứng, T đưa cho Ch 450.000đ, Ch đưa cho T 01 gói ma túy. Mua bán xong T điều khiển xe mô tô đi về nhà, khi đi đến gần cầu Cửa Đạt thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TX phát hiện và bắt quả tang. Cơ quan điều tra đã niêm phong chất bột màu trắng ngà thu giữ trên người Nguyễn Văn T trong phong bì do Công an huyện TX phát hành.

Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại của Hà Văn Th. Tại biên bản kiểm tra điện thoại hồi 20 giờ ngày 02/12/2020 tại thôn TS 2, thị trấn TX, huyện TX. Kết quả xác định: Đối với điện thoại Nokia màu đen có số thuê bao 0965804xxx của Hà Văn Th: phần gọi đi vào số máy 0964.063.xxx của Nguyễn Văn Ch, gọi lúc 14 giờ 54 phút ngày 02/12/2020, thời lượng cuộc gọi 04 giây; phần gọi đến từ số thuê bao 0964063xxx gọi lúc 14 gời 56 phút ngày 02/12/2020, thời lượng cuộc gọi 29 giây.

Ngày 03/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TX ra quyết định trưng cầu giám định số 143/CSĐT, trưng cầu giám định đối với chất bột màu trắng ngà thu giữ trên người Nguyễn Văn T.

Tại bản kết luận giám định số 3153/PC09 ngày 07/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T đã kết luận: mẫu vật gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,264g loại Heroine.

Khám xét nơi ở của Nguyễn Văn Ch vào hồi 07 giờ 15 phút ngày 03/12/2020 tại thôn TL, xã VX. Cơ quan điều tra Công an huyện TX đã thu giữ:

- 01 túi nilon trong suốt, miệng túi có viền đỏ và kéo khóa, mép bên trong có 16 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột trắng ngà; 01 túi nilon trong suốt miệng có viền kéo mép, bên trong có 03 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng ngà;

01 túi nilon trong suốt, miệng túi có viền kéo mép khóa bên trong có 14 gói nilon màu đen, bên trong lớp nilon màu đen là lớp giấy màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột trắng ngà. Cơ quan điều tra đã niêm phong toàn bộ tang vật nêu trên vào phong bì ký hiệu M1.

- 01 gói chứa chất bột màu trắng ngà bọc trong giấy bạc; Cơ quan điều tra đã niên phong vào phong bì ký hiệu M2.

- 01 xe Honda Vision đã qua sử dụng, BKS 36M1 – xxxxx.

- 01 Đồng hồ Casio dây da màu đen; 01 đồng hồ dây kim loại màu bạc, vàng; 01 điện thoại Iphone 5s màu vàng; 01 điện thoại OPPO màu trắng; 01 điện thoại Nokia màu trắng; 01 điện thoại màu xanh vỏ máy có chữ FORME; 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại Iphone 7 Plus; 01 cuốn vở ghi màu trắng, loại giấy có dòng kẻ ngang có vết xé nhiều trang; 82 mảnh giấy có dòng kẻ được cắt vuông, kích thước cạnh từ 3 đến 5cm; 01 cân tiểu ly hình bao thuốc; 01 lưỡi dao lam; 01 khóa Việt tiệp màu đen đã qua sử dụng, kèm theo 03 chìa khóa; số tiền 86.930.000đ.

Kiểm tra trên người Nguyễn Văn Ch thu giữ 01 điện thoại Nokia màu đen, có số Emei: 355763109618938, máy lắp sim số 0964063xxx; kiểm tra thông tin qua tin nhắn 1414 số điện thoại 0964063xxx là thuê bao trả sau kích hoạt ngày 25/7/2020, chủ thuê bao là Nguyễn Văn Ch,sinh ngày 20/7/1985; số tiền 1.270.000đ (Trong đó có số tiền Ch bán ma túy cho T và Th là 650.000đ).

Cơ quan điều tra đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn Chí.

Ngày 03/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TX đã ra quyết định trưng cầu giám định số 144/CSĐT giám định đối với chất bột trắng ngà được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, M2. Tại bản kết luận giám định số 3154/PC09 ngày 07/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T: Chất bột màu trắng ngà trong phong bì niêm phong ký hiệu M1, M2 là ma túy, có tổng khối lượng là 3,488g loại Heroine.

Ngày 29/12/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thường Xuân ra quyết định trưng cầu giám định số 155/CSĐT giám định đối với số tiền 86.930.000đ thu giữ tại nơi ở của Nguyễn Văn Ch và số tiền 1.270.000đ thu giữ trên người Nguyễn Văn Ch. Tại bản kết luận giám định số 696/CSĐT ngày 03/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: tiền được gửi giám định là tiền thật.

Tại bảng kê các cuộc gọi đi, cuộc gọi đến được ban hành kèm theo Công văn phúc đáp số 107/CNVTQĐ ngày 23/12/2020 của Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội: Số thuê bao 0965804xxx của Hà Văn Th gọi đến số máy 0964063xxx của Nguyễn Văn Ch lúc 14 giờ 54 phút 56 giây ngày 02/12/2020 thời lượng cuộc gọi 04 giây; số thuê bao máy 0964063xxx của Nguyễn Văn Ch gọi đến số thuê bao 0965804xxx của Hà Văn Th lúc 14 giờ 56 phút 14 giây ngày 02/12/2020, thời lượng cuộc gọi 29 giây.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn Ch khai nhận: Cách thời điểm bị bắt khoảng 10 ngày, Ch mua Heroine của một người đàn ông không quen biết tại thành phố T, sau đó đem về chia nhỏ để bán cho các con nghiện. Ngày 02/12/2020, Ch bán cho Nguyễn Văn T 01 gói Heroine giá 450.000đ(bốn trăm năm mươi nghìn đồng); số Heroine còn lại Ch cất giấu để bán cho các con nghiện thì bị Cơ quan điều tra thu giữ. Tại cơ quan điều tra Ch không thừa nhận hành vi bán ma túy cho Hà Văn Th và Vi Văn Th, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay Ch đã thừa nhận hành vi của mình bán ma túy cho Hà Văn Th vào khoảng 15 giờ ngày 02/12/2020 với số tiền 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng), lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, lời khai của người làm chứng, do vậy có đủ cơ sở xác định Nguyễn Văn Ch đã bán ma túy cho Hà Văn Th vào ngày 02/12/2020.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T đã được xử lý bằng một vụ án khác.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hà Văn Th và Vi Văn Th, công an huyện TX đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Th và Th.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 86.930.000 đồng, 01 điện thoại Iphone 7 Plus, 01 điện thoại Iphone 5s màu vàng đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là chị Phạm Thị H(chung sống như vợ chống với Nguyễn Văn Ch), không liên quan đến hành vi phạm tội của Ch, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H.

- Đối với 01 xe Honda Vision đã qua sử dụng BKS 36M1 – xxxxx, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Lê Thị Nh. Chị Nh cho Ch mượn xe nhưng không biết Ch sử dụng để làm phương tiện mua bán trái phép chất ma túy, nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nh.

Đối với số vật chứng còn lại thu giữ của Nguyễn Văn Ch và tại nơi ở của Nguyễn Văn Chí hiện đang được bảo quản để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKSTX ngày 10 tháng 5 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện TX truy tố bị cáo Nguyễn Văn Ch về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 BLHS 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Ch phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s,t khoản 1 Điều 51;

Điều 38 BLHS 2015. Xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 03/12/2020; Áp dụng điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a,b,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong, bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định; 01mảnh nilon màu đen kích thước (5x10cm); 01 cuốn vở ghi màu trắng, loại giấy có dòng kẻ ngang có vết xé nhiều trang; 82 mảnh giấy có dòng kẻ được cắt vuông, kích thước cạnh từ 3 đến 5cm; 01 cân tiểu ly hình bao thuốc; 01 lưỡi dao lam; 01 sim điện thoại số 0964063xxx.

Trả lại cho bị cáo: 01 Đồng hồ Casio dây da màu đen; 01 đồng hồ dây kim loại màu bạc, vàng; 01 điện thoại OPPO màu trắng; 01 điện thoại Nokia màu trắng; 01 điện thoại màu xanh vỏ máy có chữ FORME; 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 khóa Việt tiệp màu đen đã qua sử dụng, kèm theo 03 chìa khóa; số tiền 620.000đ.

Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Nokia màu đen, có số Emei: 355763109618938 và số tiền 650.000đ(Sáu trăm năm mươi nghìn đồng) do bị cáo phạm tội mà có.

Đề nghị không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố; trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sữa chữa lỗi lầm của bản thân, sớm đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố; lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã có hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời.

Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy của mình và số ma túy thu giữ được tại nơi ở của bị cáo; căn cứ vào các tài liệu thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa. Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015. Quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước; làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo ý thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe và đời sống xã hội cũng như sự ngăn cấm của pháp luật nhưng vì hám lợi, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm để đảm bảo răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Bị cáo có nhân thân xấu, 31/7/2020 đã bị xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.

Tình tiết tăng nặng TNHS: Không.

Tình tiết giảm nhẹ TNHS: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo, tích cực phối hợp với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TX trong việc phát hiện tội phạm. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s,t khoản 1 Điều 51 BLHS để bị cáo thấy rõ sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Xuân thực hành quyền công tố tại phiên tòa áp dụng đối với bị cáo:Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, án phí và xử lý vật chứng mà đại diện Viện kiểm sát đã có ý kiến đề nghị. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, dó đó đề nghị của đại diện Viện kiểm sát được HĐXX chấp nhận.

[6] Về hình phạt : Từ những căn cứ nêu trên, cần áp dụng quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 251, điểm s,t khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS 2015; xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, để bị cáo tích cực cải tạo, rèn luyện trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế của bị cáo thì thấy bản thân bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, thu nhập không có; điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành án. Do vậy không cần áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 Phong bì niêm phong hoàn trả sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành được dán kín, niêm phong; 01mảnh nilon màu đen kích thước (5x10cm); 01 cuốn vở ghi màu trắng, loại giấy có dòng kẻ ngang có vết xé nhiều trang; 82 mảnh giấy có dòng kẻ được cắt vuông, kích thước cạnh từ 3 đến 5cm;

01 cân tiểu ly hình bao thuốc; 01 lưỡi dao lam; 01 sim điện thoại số 0964063xxx. Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành; công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, vật không có trị sử dụng. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm a,c khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy;

- 01 Đồng hồ Casio dây da màu đen; 01 đồng hồ dây kim loại màu bạc, vàng; 01 điện thoại OPPO màu trắng; 01 điện thoại Nokia màu trắng; 01 điện thoại màu xanh vỏ máy có chữ FORME; 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 khóa Việt tiệp màu đen đã qua sử dụng, kèm theo 03 chìa khóa; số tiền 620.000đ không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015 tuyên trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại Nokia màu đen, có số Emei: 355763109618938 bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên cần áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015 tuyên tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước;

- Đối với số tiền 650.000đ(Sáu trăm năm mươi nghìn đồng) do bị cáo bán ma túy mà có. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015 tuyên tịch thu số tiền trên để sung vào ngân sách Nhà nước.

[8] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s,t khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015;

1. Tuyên: Bị cáo Nguyễn Văn Ch(tên gọi khác: Nguyễn Văn Tr) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ch 07(Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/12/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a,b,c khoản 1, Điều 47 BLHS 2015;

điểm a,b,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 Phong bì niêm phong hoàn trả sau giám định; 01 mảnh nilon màu đen kích thước (5x10cm); 01 cuốn vở ghi màu trắng, loại giấy có dòng kẻ ngang có vết xé nhiều trang; 82 mảnh giấy có dòng kẻ được cắt vuông, kích thước cạnh từ 3 đến 5cm; 01 cân tiểu ly hình bao thuốc; 01 lưỡi dao lam; 01 sim điện thoại số 0964063xxx.

- Trả lại cho bị cáo: 01 Đồng hồ Casio dây da màu đen; 01 đồng hồ dây kim loại màu bạc, vàng; 01 điện thoại OPPO màu trắng; 01 điện thoại Nokia màu trắng; 01 điện thoại màu xanh vỏ máy có chữ FORME; 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 khóa Việt tiệp màu đen đã qua sử dụng, kèm theo 03 chìa khóa; số tiền 620.000đ (Sáu trăm hai mươi nghìn đồng).

- Tịch thu 01 điện thoại Nokia màu đen, có số Emei: 355763109618938 để phát mại sung vào ngân sách Nhà nước; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 650.000đ (Sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Toàn bộ số vật chứng này có đặc điểm thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 17/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TX và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TX.

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Án xử sơ thẩm công khai, có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thường Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;