Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 211/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 211/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 117/2022/HSST ngày 23 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1616/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Thị T (tên gọi khác: không có); giới tính: nữ; sinh năm: 1974 tại tỉnh Tiền Giang; nơi đăng ký HKTT: Ấp TT, xã TS, thành phố MT, tỉnh Tiền Giang; tạm trú: BSS/10C LVQ, phường BHHA, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không có; con ông (không rõ), con bà MTP; hoàn cảnh gia đình: có chồng (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2003; tiền sự: không có.

Tiền án: Ngày 26/9/2018 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 16/8/2019 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 30/12/2020 (có mặt).

2. Trịnh Thị Hồng P (tên gọi khác: không có); giới tính: nữ; sinh năm:

1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT: 240A TKTQ, phường SK, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: ML/10 NMC, phường HT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không có; con ông TVC và bà NTX; hoàn cảnh gia đình: có chồng (chưa đăng ký kết hôn) và 04 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không có.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 30/12/2020 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng: Người bào chữa:

1. Ông NMC – Luật sư Văn phòng luật sư ĐT thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho chỉ định cho bị cáo Nguyễn Thị T (có mặt).

2. Bà NNT – Luật sư Văn phòng luật sư HTH thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Trịnh Thị Hồng P (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị T và Trịnh Thị Hồng P đều là người nghiện ma túy và có quen biết nhau từ trước. Khoảng 13 giờ ngày 30/12/2020, cả hai ngồi uống nước tại khu vực quận Tân Phú thì Đạt (không rõ lai lịch) điện thoại cho T nhờ mua giúp 100 gram ma túy đá nên T liên hệ với Bét (không rõ lai lịch) thì được báo giá 27.000.000 đồng. Do Đạt còn nợ T 5.000.000 đồng nên T báo đúng giá để Đạt mua và trả tiền nợ cho T. Bét không đi giao ma túy được nên nói T nếu đi giao thì được trả công là 500.000 đồng. Lúc này, P ngồi nghe được câu chuyện nên nói T cho P đi giao ma túy để lấy tiền công, T đồng ý. Khi Bét tới đưa ma túy cho T thì T đưa lại cho P đi giao đồng thời dặn P thu 27.000.000 đồng tiền ma túy và 5.000.000 đồng tiền Đạt nợ T.

P về nhà và nhờ Trần Vệ Khánh D là hàng xóm chở đi công chuyện nênDđồng ý. Khoảng 14 giờ 40 phút cùng ngày, Khánh D điều khiển xe gắn máy biển số 52F1-xxxx chở Trịnh Thị Hồng P lưu thông đến trước nhà số 20 đường số 16A, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị kiểm tra. Thu giữ trên tay trái của P 01 túi nylon bên trong chứa 01 gói giấy màu vàng, qua giám định là Methamphetamine, khối lượng 100,3317 gram. Khám xét chỗ ở của P tại nhà ML/10 NMC, phường HT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh, không thu giữ đồ vật liên quan đến ma túy.

Căn cứ lời khai của P, khoảng 15 giờ 30 phút ngày 30/12/2020, công an kiểm tra nơi ở của Nguyễn Thị T tại số BSS/10C LVQ, phường BHHA, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ: Trên nệm trong phòng có 01 gói nylon bên trong có 27 viên nén tròn màu hồng viền răng cưa, qua giám định là MDMA có khối lượng 9,4552 gram; trên kệ để tivi có 02 gói nylon qua giám định là Methamphetamine có khối lượng 0,3324 gram. Ngoài ra, còn thu giữ của T 01 bình hút sử dụng ma túy.

Tại bản cáo trạng số 438/CTr-VKS-P1 ngày 04/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

+ Bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

+ Bị cáo Trịnh Thị Hồng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

Đối với các đối tượng Bét, Đạt và Thanh do các bị cáo khai không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố nêu quan điểm luận tội:

- Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng.

- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị xử phạt:

+ Bị cáo Nguyễn Thị T 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng + Bị cáo Trịnh Thị Hồng P từ 18 đến 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng.

- Về vật chứng, đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị T nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo được Đạt nhờ mua giùm, bản thân không hưởng lợi gì trong lần mua bán này, bản chất chỉ là mô giới để lấy được tiền nợ cũ. Sở dĩ T nhận lời đi giao vì Bét không đi được, bị cáo không phải người chuyên nghiệp trong chuyện mua bán ma túy. Ma túy chưa giao được nên phạm tội chưa đạt. Bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải, hiện là lao động chính, hoàn cảnh gia đình khó khăn, thực tế từ lúc bị bắt con bị cáo cũng không quan T thăm nuôi nên không có khả năng đóng tiền phạt. Do đó, đề nghị áp dụng thêm Điều 15; Điều 57 để tuyên phạt mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trịnh Thị Hồng P nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội lần đầu với vai trò đồng phạm giúp sức để hưởng tiền công. Trình độ văn hóa thấp 9/12 nên nhận thức pháp luật không cao, trong thời điểm dịch bệnh khó khăn dẫn đến thiếu suy nghĩ. Mẹ bị cáo đã 70 tuổi mà phải nuôi 4 con của bị cáo, chồng bị cáo mặc dù chưa ly hôn nhưng ly thân từ lâu. Hoàn cảnh bị cáo khó khăn như vậy nên khả năng chấp hành hình phạt bổ sung là rất khó khăn. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn ăn hối cải nên đề nghị tuyên phạt mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Số tiền thu giữ 10.000.000 đồng xin xem xét trả lại để phần nào hỗ trợ nuôi các con của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản khám xét, biên bản thu giữ vật chứng và các biên bản hoạt động điều tra khác có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 30/12/2020, Trịnh Thị Hồng P giúp Nguyễn Thị T đi bán ma túy đá cho đối tượng Đạt (không rõ lai lịch) để hưởng tiền công 500.000 đồng thì bị bắt quả tang trước nhà số 20 đường số 16A, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Thu giữ trên tay trái P 01 túi nylon, qua giám định là chất ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine. Khám xét nơi ở của T tại nhà số BSS/10C LVQ, phường BHHA, quận BT thu giữ 27 viên nén tròn màu hồng viền răng cưa và 02 gói nylon, qua giám định là chất ma túy ở thể rắn loại MDMA và Methamphetamine.

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thị T và Trịnh Thị Hồng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gieo rắc nọc độc, làm tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo Nguyễn Thị T tham gia mua bán trái phép chất ma túy, khi khám xét thu giữ quả tang 9,7876 gram ma túy ở thể rắn (gồm 9,4552 gram MDMA và 0,3324 gram Methamphetamine). Ngoài ra, Nguyễn Thị T còn chịu trách nhiệm đối với 100,3317 gram ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine đã đưa cho Trịnh Thị Hồng P đi bán. Do đó cần áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị T; áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo Trịnh Thị Hồng P với mức án tương xứng.

Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cân nhắc, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn thể hiện ăn năn hối cải, bị cáo Trịnh Thị Hồng P phạm tội lần đầu đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, nên giảm cho các bị cáo một mức hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu như lời bào chữa của các luật sư là có căn cứ.

Ngoài hình phạt chính, buộc bị cáo Nguyễn Thị T nộp phạt một khoản tiền nhất định để nộp Ngân sách Nhà nước.

Đối với bị cáo Trịnh Thị Hồng P có hoàn cảnh kinh tế khó khăn do có 04 con nhỏ hiện do mẹ ruột của bị cáo cũng đã lớn tuổi đang trực tiếp nuôi dưỡng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng và đồ vật thu giữ:

- Ma túy là vật cấm lưu hành; bình sử dụng ma túy, bịch nylon, gói giấy không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động thu giữ là phương tiện các bị cáo liên lạc thực hiện hành vi phạm tội còn giá trị sử dụng nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- Xe gắn máy Luvias thu giữ của Trịnh Thị Hồng P, bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, do chưa xác định được chủ sở hữu nên cần thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ sở hữu hợp pháp trong thời gian nhất định, nếu hết thời gian này mà không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước. Đối với biển số 52F1-xxxx, qua xác minh không phải của xe gắn máy nêu trên nên tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 10.000.000 đồng thu giữ của Trịnh Thị Hồng P không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị T Trịnh Thị Hồng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Nguyễn Thị T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2020.

Buộc bị cáo T nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Trịnh Thị Hồng P 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2020.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói niêm phong số 137/21 bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là mẫu còn lại sau giám (khối lượng khoảng 8,6678g).

+ 01 gói niêm phong số 136/21 bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là mẫu còn lại sau giám (khối lượng khoảng 99,3252g).

+ 01 bịch nylon màu trắng, bên trong không chứa gì; 01 gói giấy màu vàng, bên trong không chứa gì; 01 bình sử dụng ma túy.

+ 01 biển số xe mang số 52F1-xxxx.

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Vivo (không kiểm tra được imei, số sim do không có nguồn điện).

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, imei: 353279/11/366398/6.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, imei:354565/11/569733/0.

+ 01 điện thoại di động hiệu Huawei (số imei:...198870) * Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu, nếu hết thời hạn trên không tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước đối với: Xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Yamaha, số loại: Luvias, dung tích xilanh 124, số khung: RLCL44S10AY020894, số máy: 44S1020900 (không gương, đèn sau bể, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).

* Trả lại bị cáo Trịnh Thị Hồng P số tiền 10.000.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/051 ngày 18/10/2021 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền ngày 15/4/2021 của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.HCM nộp vào Kho bạc Nhà nước Quận 10).

Mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 211/2022/HS-ST

Số hiệu:211/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;