Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 173/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N B, TỈNH N B

BẢN ÁN 173/2019/HS-ST NGÀY 25/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 174/2019/TLST- HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Hữu Th (tên gọi khác: không); Sinh năm : 1967 Nơi ở và nơi ĐKHKTT: số nhà 51, ngõ 22, đường T, phố 4, phường V Gi, thành phố N B, tỉnh N B;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị N ( đã chết). Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ 6 ; Vợ Tạ Thị Th, sinh năm 1973; có 01 con sinh năm 2005.

Tiền án :

- Ngày 27/3/2002, Tòa án nhân dân huyện H L, tỉnh N B xử phạt 24 tháng tù giam về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nộp án phí 50.000 đồng, phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Th chưa nộp án phí và hình phạt bổ sung.

Lịch sử bản thân :

- Ngày 21/4/2006, Tòa án nhân dân thị xã N B, tỉnh N B xử phạt Nguyễn Hữu Th 30 tháng tù giam về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Ngày 29/7/2009, Tòa án nhân dân thành phố N B, tỉnh N B xử phạt Nguyễn Hữu Th 24 tháng tù giam về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/9/2019 đến ngày 18/9/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh N B cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) 1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

11. Anh Điền Đức Đ, sinh năm 1987 Nơi cư trú: thôn T, xã N Ph, thành phố N B, tỉnh N B (vắng mặt)

1.2. Anh Phạm Văn T; sinh năm 1992 Nơi cư trú: số nhà 31, ngõ 1, đường D, phố Tây Sơn 1, phường Th B, thành phố N B, tỉnh N B (vắng mặt).

2. Người làm chứng:

2.1. Chị Tạ Thị Th, sinh năm 1973 (có mặt)

2.2. Anh Phạm Văn Th, sinh năm 1984 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu Th là người nghiện ma tuý, để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, Th đi mua ma tuý về bán cho những người nghiện kiếm lời. Khoảng 10 giờ ngày 12/9/2019, Điền Đức Đ, sinh năm 1987, trú tại thôn T, xã N Ph, thành phố N B gặp bạn là Phạm Văn T sinh năm 1992, trú tại phố Tây Sơn 1, phường Th B, thành phố N B đều là người nghiện ma túy. Khi gặp nhau Đ rủ T mỗi người góp 100.000 đồng để mua ma túy về sử dụng chung, T đồng ý và đưa cho Đ100.000 đồng, Đ cũng góp 100.000 đồng. Vì biết Nguyễn Hữu Th có bán ma túy và có số điện thoại của Th nên Đ lấy chiếc điện thoại di động Oppo màu đồng lắp sim số 0332.xxxxxx gọi đến số 0946.xxxxxx của Th hỏi mua 200.000 đồng ma túy loại Heroine, Th đồng ý và hẹn đến nhà Th, Th bán ma túy cho. Sau đó, Nguyễn Hữu Th thuê xe ôm sang khu vực xã Yên Bằng, huyện Ý Y, tỉnh N Đ gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 100.000 đồng được 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng bên trong là chất bột dạng cục màu trắng. Sau khi mua được ma túy Th thuê xe ôm đi về nhà và cất gói ma túy vừa mua được trong túi quần rồi lấy xe mô tô Honda màu đen đeo biển kiểm soát 29T9-xxxx chở cháu bé hàng xóm đi chơi. Còn T mượn xe mô tô của bạn đưa cho Đ điều khiển chở T đến nhà Th lấy ma túy. Khi đến đầu ngõ 22, đường T, phố 4, phường V Gi, thành phố N B cách nhà Th khoảng 100m thì T xuống xe đứng đợi còn Đ điều khiển xe vào nhà Th nhưng không gặp nên Đ điều khiển xe đi ra đầu ngõ. Khi Đ điều khiển xe ra đến đầu ngõ thì gặp Th đang lai cháu bé đi ngược hướng vào nhà Th. Thấy vậy Th chỉ Đ ra ngoài đầu ngõ đợi, còn Th đưa cháu bé về nhà hàng xóm. Sau đó Th lấy gói ma túy trong túi quần cho vào vỏ kẹo Alpenliebe cầm trên tay rồi điều khiển xe mô tô ra chỗ Đ đang đứng đợi. Do đã thỏa thuận từ trước nên khi gặp nhau Th đưa cho Đ gói ma túy trên, Đ cầm gói ma túy và đưa lại cho Th 200.000 đồng ( gồm 10 tờ 10.000 đồng và 02 tờ 50.000 đồng). Sau khi bán ma túy cho Đ, Th cầm tiền về nhà cất 10 tờ mệnh giá 10.000 đồng vào trong ví để trên đệm còn 02 tờ 50.000 đồng Th bỏ trong chiếc ví để dưới đệm ở giường phòng ngủ tầng 1, còn Đ và T mang xe đi trả cho người bạn của T. Sau khi trả xe xong, Đ và T mua 02 xilanh, nước cất rồi bắt xe ôm lên khu vực nghĩa trang Núi Lớ thuộc thôn Thượng, xã N Nh, Thành phố N B lấy số ma túy vừa mua sử dụng hết. Khi Đ và T vừa sử dụng hết số ma túy thì gặp Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Kinh tế Công an thành phố N B phối hợp với Công an xã N Nh đang làm nhiệm vụ kiểm tra hành chính phát hiện Đ và T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Thu giữ trên tay Đ và T mỗi người 01 xilanh nhựa bên trong có bám dính dung dịch màu hồng, 01 vỏ kẹo nhãn hiệu Alpenliebe bên trong có 01 mảnh giấy bạc màu vàng tại nền đất tại vị trí Đ và T ngồi, 01 điện thoại Oppo màu đồng và 01 mảnh giấy bạc màu vàng trong túi quần bên trái phía trước Đồng đang mặc. Tổ công tác niêm phong 02 xi lanh nhựa loại 1ml bên trong có bám dính dung dịch màu hồng vào 02 phong bì ký hiệu H1, H2 rồi đưa T và Đ về trụ sở Công an xã N Nh lập biên bản vi phạm hành chính. Quá trình làm việc tại Công an xã N Nh, Đ và T khai nhận nguồn gốc số ma túy vừa sử dụng là do Đ và T góp tiền mua của Nguyễn Hữu Th với giá 200.000 đồng.

Căn cứ vào lời khai của Đ và T, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Hữu Th tại số nhà 51, ngõ 22, đường T, phố 4, phường V Gi, thành phố N B, thu giữ:

06 vỏ kẹo Alpenliebe ở dưới đệm ghế ngồi trong phòng khách tầng 1 phía bên phải nhìn từ ngoài vào, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 1 cóng thủy tinh tại khu vực cửa sổ tầng 1; 05 miếng giấy bạc, một mặt màu trắng, một mặt màu vàng tại loa bên cạnh tivi; 01 cân tiểu ly màu đen kích thước 7x5x1,5cm trong túi sách ở phòng ngủ tầng 1; thu trên giường ngủ tầng 1: số tiền 109.000 đồng trong ví da màu đen, 34.000 đồng trên giường, 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Oppo lắp sim số 0946.xxxxxx, số tiền 3.600.000 trong ví dưới đệm, số tiền 406.000 đồng ở túi sách treo ở tường phòng bếp. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Hữu Th 01 xe mô tô Honda màu đen đeo biển kiểm soát 29T9-xxxx và 01 áo, mũ cối. Quá trình làm việc với cơ quan điều tra công an thành phố N B Nguyễn Hữu Th đã xin đầu thú về hành vi bán trái phép 01 gói heroine cho Điền Đức Đ vào khoảng 10 giờ ngày 12/9/2019.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N B đã gửi 01 phong bì niêm phong ký hiệu H1 bên trong có 01 xilanh nhựa loại 1ml bên trong có bám dính dung dịch màu hồng và 01 phong bì niêm phong ký hiệu H2 bên trong có 01 xilanh nhựa loại 1ml bên trong có bám dính dung dịch màu hồng thu giữ của Đ và T gửi giám định ma túy, xác định loại ma túy và thể tích chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 287/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, kết luận: Mẫu chất lỏng màu hồng bám dính bên trong hai bơm kim tiêm nhựa ký hiệu H1, H2 gửi giám định có thành phần Heroine. Lượng chất lỏng bám dính ít, không đủ để xác định thể tích. Heroine là chất ma tuý thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”. Hoàn trả mẫu vật là hai bơm kim tiêm nhựa ký hiệu H1, H2.

Cáo trạng số 173/CT - VKS ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B tỉnh N B đã truy tố Nguyễn Hữu Th về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, khoản 5 điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 287/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N B.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu Th đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 BLHS. Xử phạt Nguyễn Hữu Th từ 27 tháng tù đến 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2019.

Về hình phạt bổ sung : Áp dụng khoản 5 điều 251 BLHS phạt tiền bị cáo Nguyễn Hữu Th từ 5.000.000 đồng triệu đến 10.000.000 triệu đồng để sung Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS - Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng và là vật Nhà nước cấm lưu hành gồm :

+ 02 phong bì thư dán kín, niêm phong mặt sau phong bì thư có 03 hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Ninh Bình.

+ 06 vỏ kẹo Alpenlieber màu vàng + 01 mũ cối màu xanh, 01 chiếc áo màu xanh + 01 vỏ bao thuốc lá, bên trong có một coong thủy tinh + 05 miếng giấy bạc + 01 cân tiểu ly màu đen - Tịch thu sung Ngân sách nhà nước số tiền 200.000 là tiền bị cáo bán ma túy mà có và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen thu của bị cáo Nguyễn Hữu Th là phương tiện sử dụng để giao dịch bán ma túy.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Hữu Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình: bản thân là người nghiện ma túy và đang trong quá trình uống thuốc Metadonne. Ngày 12/9/2019 sau khi Điền Đức Đ ở xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình có gọi điện cho bị cáo hỏi mua ma túy, bị cáo đã sang bên khu vực thôn Dinh Tần, huyện Ý Y, tỉnh N Đ mua 100.000 đồng ma ma túy về bán cho Đồng với giá 200.000 đồng. Lời khai của bị cáo phù hợp khách quan với biên bản mở niêm phong, kiểm tra điện thoại sao trích hình ảnh, file ghi âm; biên bản thu giữ, kiểm tra điện thoại và sao trích video. Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; kết luận giám định số 287/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, khẳng định hành vi bán 01 gói ma túy giá 200.000 đồng của Nguyễn Hữu Th ngày 12/9/2019 cho Điền Đức Đồng nhằm mục đích kiếm lời là phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 251 BLHS như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu Th thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác , gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; ma túy làm suy đồi đạo đức, thuần phong mỹ tục, tiêu tán, kiệt quệ kinh tế của nhiều cá nhân, gia đình. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, bản thân lại là người nghiện ma túy nên bị cáo phải nhận thức rõ được tác hại của ma túy và hậu quả của việc gieo rắc ma túy trong cộng đồng xã hội. Phải tự rèn mình, sống có ích để làm tấm gương cho con cái và gia đình. Nhưng chỉ vì mục đích lợi nhuận mà bị cáo phạm tội mua bán ma túy; Bị cáo lại là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt bằng bản án của Tòa án nhân dân huyện H L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội là thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do vậy cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tự cải tạo mình để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét:

Về tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 11/HSST ngày 27/3/2002, Tòa án nhân dân huyện H L, tỉnh N B xử phạt 24 tháng tù giam về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nộp án phí 50.000 đồng, phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Đến nay bị cáo Th chưa thi hành xong khoản án phí và hình phạt bổ sung mà lại phạm tội do cố ý là tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo đã ra đầu thú, hoàn cảnh gia đình lại khó khăn: vợ bị cáo bị bệnh nặng, nên xem xét áp dụng khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 5 điều 251 của Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo một khoản tiền để sung ngân sách Nhà nước.

[4] Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1 Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không có giá trị sử dụng, bao gồm :

- 01 phong bì thư dán kín, niêm phong, mặt sau phong bì có 03 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên ngoài ghi dòng chữ : Mẫu vật hoàn trả số 287/KLGĐ- PC09- MT, 01 bơm kim tiêm nhựa loại 01ml, ký hiệu H1; vỏ bao gói niêm phong.

- 01 phong bì thư dán kín, niêm phong, mặt sau phong bì có 03 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên ngoài ghi dòng chữ : Mẫu vật hoàn trả số 287/KLGĐ- PC09- MT, 01 bơm kim tiêm nhựa loại 01ml, ký hiệu H2; vỏ bao gói niêm phong.

- 06 vỏ kẹo Alpenliebe màu vàng.

- 01 mũ cối màu xanh và 01 chiếc áo màu xanh - 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng , bên trong có 01 cóng thủy tinh - 05 miếng giấy bạc - 01 cân tiểu ly màu đen - Đối với số tiền 200.000 đồng là tiền bị cáo Thắng bán ma túy cho Điền Đức Đ mà có; 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Oppo lắp sim số 0946.xxxxxx Th dùng để liên lạc mua bán ma túy cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động Oppo màu đồng lắp sim số 0332.xxxxxx thu giữ của Điền Đức Đ. Quá trình điều tra xác định là điện thoại của anh Lã Văn H, sinh năm: 1998, trú tại: xã N Ph, thành phố N B. Ngày 12/9/2019, Đ mượn điện thoại của anh H để liên lạc cá nhân. Việc Đ sử dụng điện thoại để liên lạc mua ma túy anh H không biết nên không vi phạm. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh H chiếc điện thoại trên là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra cơ quan điều tra có thu giữ của anh Điền Văn D, sinh năm 1999, trú tại: thôn Vĩnh Tiến, xã N Ph, thành phố N B 01 điện thoại di động Oppo màu bạc. Đây là chiếc điện thoại ngày 10/9/2019 anh D cho Phạm Văn T mượn để liên lạc cá nhân. Ngày 12/9/2019, khi Đ và T đến mua ma túy của Th, T đã đưa chiếc điện thoại này cho Điền Đức Đ để Đ quay video ghi hình lúc Th trao đổi mua bán ma túy với Đ mục đích để sau này nếu có nhu cầu mua ma túy thì T biết địa chỉ và biết mặt người bán ma túy để đến mua. Sau khi tiến hành sao lưu đoạn ghi hình việc mua bán ma túy giữa Đ và Th cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại cho anh Điền Văn D là có căn cứ đúng quy định.

Đối với số tiền 109.000 đồng trong ví da màu đen, 34.000 đồng trên giường, 3.600.000 trong ví dưới đệm, 406.000 đồng ở túi sách treo ở tường phòng bếp quá trình điều tra xác định có 200.000 đồng là tiền bán ma túy cho Điền Đức Đồng mà có còn lại 3.949.000 đồng là tiền của chị Tạ Thị Th, sinh năm 1973, trú tại: số nhà 51, ngõ 22, đường T, phố 4, phường V Gi, thành phố N B là vợ của Th không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Th số tiền 3.949.000 đồng là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô Honda màu đen đeo biển kiểm soát 29T9-xxxx quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên Th mua của một người không quen biết trên Hà Nội với giá 1.000.000 đồng không có đăng ký xe và không có giấy mua bán. Kiểm tra xe chỉ xác định được số khung, còn số máy đã bị tẩy không xác định được do đó không có căn cứ để xác định chủ sở hữu xe. Còn chiếc biển kiểm soát 29T9-xxxx xác minh là của anh Đặng Xuân H, sinh năm 1979, trú tại khối 3 C, thị trấn Đông Anh, huyện Đ A, thành phố H N, anh H xác định tháng 12/2015 đã bán chiếc xe có biển kiểm soát trên cho một người đàn ông không quen biết. Do đó không có căn cứ xử lý đối với chiếc xe mô tô Honda màu đen đeo biển kiểm soát 29T9-xxxx. Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan để điều tra xử lý sau.

[5] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Hữu Th khai mua của một người không quen biết ở xã Yên Bằng, huyện Ý Y, tỉnh N Đ nên cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình không đủ căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với Điền Đức Đ và Phạm Văn T là hai người đã góp tiền mua ma túy của Nguyễn Hữu T nhưng do số ma túy các đối tượng đã sử dụng hết, không xác định được khối lượng chất ma túy. Do đó không có căn cứ để xử lý Đ và T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Công an thành phố N B đã xử phạt hành chính cảnh cáo đối với Điền Đức Đ và Phạm Văn T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là thỏa đáng.

[6] Về án phí : Bị cáo Nguyễn Hữu Th phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 5 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Hữu Th phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”; Xử phạt Nguyễn Hữu Th 27 ( hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2019. Phạt tiền Nguyễn Hữu Th 5.000.000 đồng ( năm triệu đồng) để sung Ngân sách Nhà nước.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong + 06 vỏ kẹo Alpenliebe màu vàng.

+ 01 mũ cối màu xanh và 01 chiếc áo màu xanh + 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng , bên trong có 01 cóng thủy tinh + 05 miếng giấy bạc + 01 cân tiểu ly màu đen (Chi tiết các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/12/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B).

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước tài sản do phạm tội mà có và tài sản dùng vào việc phạm tội, gồm:

+ Số tiền 200.000 đồng ( hiện đang gửi tại tài khoản Chi cục thi hành án dân sự theo ủy nhiệm chi ngày 04/12/2019).

+ 01 điện thoại di động màu đen nhãn hiệu Oppo ( Chi tiết chiếc điện thoại theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/12/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố N B).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 173/2019/HS-ST

Số hiệu:173/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;