Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 16/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H, TỈNH N

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Hữu V; sinh ngày 01/01/1995, tại N; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: tổ 24, ấp L, xã T, thị xã H, tỉnh N và nơi cư trú hiện nay: khu phố L, phường B, thị xã H, tỉnh N; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Khuê và bà Nguyễn Ngọc Huệ; Vợ con: chưa có.

Tiền án: không có.

Tiền sự: không có.

Bị tạm giữ ngày 12/02/2020, chuyển sang tạm giam từ ngày 18/02/2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 12 giờ 30 phút ngày 12/02/2020, tại nhà không số thuộc khu phố L, phường B, thị xã H, tỉnh N, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh N kết hợp với Công an thị xã H tiến hành bắt quả tang Nguyễn Hữu V đang bán trái phép 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng cho Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995, ngụ ấp Long Hải, xã T, thị xã H, tỉnh N và Diệp Văn B, sinh năm 1988, ngụ ấp Thanh An, xã An Bình, huyện Châu Thành, tỉnh N (V chỉ bán ma túy cho một mình H, không biết việc H và B mua chung). Thu giữ trên người H 01 bịch nylon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu M. Thu trên người V tiền Việt Nam 300.000 đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của V thu giữ một số vật chứng khác có liên quan đến việc sử dụng và mua bán ma túy.

Quá trình điều tra, xác định: V là đối tượng nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và có ma túy sử dụng, V đã nhiều lần đến khu vực xã Trường Hòa mua ma túy của một người thanh niên tên Quậy (không r nhân thân, địa chỉ), mỗi lần mua từ 300.000 đồng đến 700.000 đồng, đem về chia ra thành nhiều bịch nh để sử dụng và bán lại cho người nghiện cụ thể:

- Ngày 09/02/2020, bán cho H 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng.

- Ngày 10/02/2020, bán cho H 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng.

*Tại Kết luận giám định số 202/KL-KTHS ngày 13/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon ký hiệu M gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0228 gam;

Quá trình điều tra, Nguyễn Hữu V đã thành khẩn khai báo, tự giác khai ra những lần phạm tội trước đó, ăn năn hối cải về hành vi của mình.

Đối với Nguyễn Ngọc H và Diệp Văn B có hành vi mua ma túy để sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H, tỉnh N ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định pháp luật.

Riêng người thanh niên tên Quậy bán ma túy cho V hiện chưa xác định được, khi nào làm r xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số: 20/CT-VKSND-HT ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh N truy tố bị cáo Nguyễn Hữu V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh N trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hữu V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm r, s khoản 1 Điều 51 và điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu V từ 07 năm đến 08 năm tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo V vì bị cáo không có tài sản riêng.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt ở mức thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình làm ăn lương thiện trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên thu thập: Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập đều được tiến hành đúng theo trình tự, thủ tục luật định. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo V phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, tang vật vụ án cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Ngày 12/02/2020, tại ấp L, xã B, huyện H (nay là thị xã H), tỉnh N. Nguyễn Hữu V thực hiện hành vi bán trái phép 01 bịch chất ma túy tên gọi Methamphetamine, khối lượng 0,0228 gam cho Nguyễn Ngọc H với giá 300.000 đồng thì bị bắt quả tang. Ngoài ra trước đó, V đã bán ma túy cho H 02 lần với số tiền 600.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh N truy tố bị cáo V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo V là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Bị cáo vẫn biết ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, việc sử dụng chất ma túy là nguy hiểm s dẫn đến việc lây nhiễm H V và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo ý thức được hành vi mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi và th a mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng: Không có Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và tự thú khai ra lần phạm tội trước đó. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền Việt Nam 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) là tiền do V bán ma túy mà có; 01(một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số serial: 354492095289899 do V dùng liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- 01 (một) cây kéo bằng kim loại, đã qua sử dụng; 01 (một) bình nhựa trên nắp có gắn ống nhựa màu xanh xọc và ống thủy tinh dạng phểu; đây là những vật dụng V dùng để sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu V 07 (Bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12/02/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

- Số tiền Việt Nam 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số serial: 354492095289899, đã qua sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) cây kéo bằng kim loại, đã qua sử dụng.

- 01 (một) bình nhựa trên nắp có gắn ống nhựa màu xanh xọc và ống thủy tinh dạng phểu, đã qua sử dụng. (Hiện Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thị xã H, tỉnh N đang tạm giữ).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Hữu V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án hình sự sơ thẩm xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 16/2020/HS-ST

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;