Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 154/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 154/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 155/2021/TLST- HS ngày 16 tháng 09 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 160/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 09 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L, sinh năm 1981; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X 1, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện K, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Nguyễn Văn Hòa (đã chết); họ tên mẹ: Nguyễn Thị Liên, sinh năm 1957; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ nhất; họ tên chồng: Nguyễn Đình Cương, sinh năm 1981 (đã ly hôn); bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 12/06/2021 đến ngày 21/06/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Ngô Đức E, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện K, thành phố Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 12/6/2021, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp với Công an xã M, Công an huyện K làm nhiệm vụ tại khu vực thôn T, M, K, Hà Nội phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị L đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Ngô Đức E, sinh năm 1993; HKTT: Thôn T, M, K, Hà Nội. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

Thu giữ của Nguyễn Thị L:

- 01 gói giấy ăn màu trắng bên trong gồm có:

+ 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng:

+ 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng

+ 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng;

- 01 điện thoại di động Iphone, bên trong lắp sim số 0812199023, máy đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy đã qua sử dụng.

- Số tiền 300.000 đồng.

Thu giữ của Ngô Đức E: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bàn phím bấm, bên trong lắp sim số 0399976080, máy đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị L theo địa chỉ nói trên, Cơ quan điều tra không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến vụ án.

Tại Kết luận giám định số 4848/KLGĐ-PC09 ngày 19/06/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,137 gam; 02 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,220 gam; 01 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,115 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị L, Ngô Đức E và Nguyễn Như T khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 11/6/2021, L mua 01 túi ma túy đá và 03 viên ma túy ngựa với giá 400.000 đồng của 01 người đàn ông tên Trụ không rõ nhân thân tại khu vực đường X, K, Hà Nội với mục đích bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy L cất số ma túy vào túi quần bên trái đang mặc và đi về nhà. Khoảng 12 giờ ngày 12/06/2021, khi E đang đi bộ tại khu vực X, K, Hà Nội thì gặp Nguyễn Như T, sinh năm 1997 ở Phù Đổng, K, Hà Nội. E rủ T đi cùng mua ma túy đá về sử dụng; T đồng ý. Khoảng 12 giờ 05 phút ngày 12/6/2021, E dùng số điện thoại 0399976080 gọi vào số điện thoại 0812199023 của L để hỏi mua 300.000 đồng ma tuý đá và 200.000 đồng ma túy ngựa. Do L không có đủ số lượng ma túy theo yêu cầu của E nên hai bên thỏa thuận L bán cho E 200.000 đồng ma tuý đá và 300.000 đồng ma túy ngựa hẹn giao ma túy tại đường liên xã thuộc thôn T, M; E đồng ý. L lấy 01 túi nilong chứa tinh thể màu trắng, là ma túy đá; 01 túi nilong chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng và 01 túi nilong chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng, là ma túy ngựa bọc vào 01 tờ giấy ăn màu trắng và cất vào túi quần bên trái đang mặc đi đến đoạn đường liên xã thuộc thôn T, M, L lấy gói giấy ăn bọc ma túy bên trong từ túi quần bên trái để xuống dưới đất ngay cạnh L đứng sau đó E và T đi đến chỗ L, E đưa cho L 300.000 đồng để mua ma túy. L cầm tiền cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc. Khi E đang chuẩn bị đưa tiếp số tiền 200.000 đồng cho L thì lực lượng công an đến kiểm tra, phát hiện và thu giữ tang vật.

Lời khai của Nguyễn Thị L phù hợp với lời khai của Ngô Đức E và Nguyễn Như T.

Đối với đối tượng Trụ bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Thị L, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ xử lý.

Đối với Ngô Đức E là người mua ma túy của L mục đích để sử dụng và Nguyễn Như T là người đi cùng E, qua xét nghiệm E và T âm tính với chất ma túy. Do vậy, Công an huyện K không xử lý hành chính đối với Ngô Đức E và Nguyễn Như T.

Đối với Nguyễn Như T là người đi cùng Ngô Đức E đến mua ma túy, quá trình điều tra đã làm rõ: L và T không quen biết nhau. Ngày 12/06/2021, L chỉ trao đổi mua bán ma túy với E. Việc T đi cùng E đến mua ma túy, L không biết. Do vậy, không có căn cứ xác định ngày 12/06/2021, Nguyễn Thị L đã bán ma túy cho Nguyễn Như T.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone, bên trong lắp sim số 0812199023, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị L; 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng thu giữ của Ngô Đức E, quá trình điều tra xác định đều liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị L, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 157/CT-VKSGL ngày 15 tháng 09 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị L từ 26 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/06/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone, bên trong lắp sim số 0812199023, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị L; 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng thu giữ của Ngô Đức E.

L trả bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy cũ đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Ngô Đức E vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh E không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh E.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 12/6/2021, tại khu vực đường liên xã thuộc thôn T, M, K, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Thị L đang có hành vi bán trái phép chất ma túy Methamphetamine, khối lượng 0,472 gam cho Ngô Đức E thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội.

Methamphetamine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được đầy đủ về tác hại của ma tuý nhưng vẫn tham gia mua bán trái phép nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện đang nuôi con nhỏ bị khuyết tật. Như vậy, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone, bên trong lắp sim số 0812199023, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị L;

01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng thu giữ của Ngô Đức E là phương tiện, tiền bạc liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

L trả bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0964585716, máy cũ đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho L, do không xác định được nhân thân, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Nguyễn Như T là người đi cùng Ngô Đức E đến mua ma túy, quá trình điều tra đã làm rõ: L và T không quen biết nhau. Ngày 12/06/2021, L chỉ trao đổi mua bán ma túy với E. Việc T đi cùng E đến mua ma túy, L không biết. Do vậy, không có căn cứ xác định ngày 12/06/2021, Nguyễn Thị L đã bán ma túy cho Nguyễn Như T.

Đối với Ngô Đức E và Nguyễn Như T do chưa mua được ma tuý của L, qua xét nghiệm đều có kết quả âm tính với ma túy, Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với E và T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/06/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ: 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể mầu trắng là ma túy Methamphetamine, có khối lượng còn lại là 0,122 gam (sau khi đã trích mẫu để giám định 0,015 gam); 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa 02 viên nén hình tròn màu hồn, là ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng còn lại là 0,127 gam (sau khi đã trích mẫu để giám định 0,093 gam); 01 túi nilong màu trắng bên trong chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng còn lại là 0,078 gam (sau khi đã trích mẫu để giám định 0,037 gam) thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị L, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn Thị L, cán bộ niêm phong và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội L lại sau giám định;

3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone, bên trong lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị L;

3.3. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Ngô Đức E.

3.4. L trả bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đen, bên trong có lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị L.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 16/09/2021).

3.4. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị L.

3.5. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Ngô Đức E.

(Số tiền 500.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0054864 ngày 21/09/2021).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Nguyễn Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Ngô Đức E có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 154/2021/HS-ST

Số hiệu:154/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;