TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 147/2023/HS-ST NGÀY 22/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 22 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 139/2023/TLST – HS, ngày 23 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2023/QĐXX - HSST ngày 06 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
+ Họ và tên: Vũ Văn Đ, sinh năm 1987. Nơi ĐKHKTT: Thôn HG, xã YB, huyện HL, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở hiện nay: Thôn KCB, xã KT, huyện BV, TP. Hà Nội. Trình độ văn hóa: 9/12 ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Vũ Minh T (đã chết) và bà Phạm Thị T1, sinh năm 1953. Vợ: Trần Thị H, sinh năm 1988. Con: Chưa có. Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 24/8/2023 đến ngày 30/8/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Đinh Công C, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Khu 7, xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ ( Anh C vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10h ngày 24/8/2023, Vũ Văn Đ đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Đinh Công C hỏi mua 400.000 đồng ma túy heroine. Do có sẵn ma túy nên Đ đồng ý. Đ hẹn C đến bến đò PT thuộc xã KT, huyện BV, thành phố Hà Nội để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó, Đ lấy 01 gói ma túy heroine gói bằng giấy màu trắng đang để trong bao thuốc lá T màu vàng ra, đút vào túi quần phía trước bên trái Đ đang mặc rồi đi bộ ra chỗ hẹn với C. Khi Đ ra đến nơi thì C cũng đi bộ tới. C đưa 400.000 đồng ( gồm 02 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng) cho Đ. Đ nhận tiền và cầm ở tay trái; đồng thời lấy 01 gói ma túy heroien ra đưa cho C. Đúng lúc này, tổ công tác- Công an xã KT và Đội Cảnh sát Kinh tế- Ma túy, công an huyện Ba Vì đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát ở khu vực bến đò thôn PT, xã KT đã tiến hành kiểm tra các đối tượng. Do hoảng sợ, Đ đã thả gói ma túy heroine và 400.000 đồng trên tay xuống đất. Tổ công tác đã phát hiện, thu giữ và lập biên bản bắt quả tang Vũ Văn Đ và Đinh Công C về hành vi “ mua bán trái phép chất ma túy”; đồng thời đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng, thu giữ dưới chân Vũ Văn Đ. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, thu trên người Vũ Văn Đ. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, thu trên người Đinh Công C. Số tiền 400.000 đồng ( gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ) - tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành, thu dưới chân Vũ Văn Đ. Số tiền 100.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành, thu trên người Vũ Văn Đ.
Ngày 07/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Ba Vì đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 391/QĐ- CQĐT trưng cầu phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội giám định đối với gói chất bột nêu trên. Tại bản Kết luận giám định số 5820/KL-KTHS ngày 01/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,042 gam”.
Về nguồn gốc số ma túy Đ mang đi bán cho C trưa ngày 24/8/2023, Đ khai: chiều ngày 23/8/2023, Đ mua 01 gói ma túy Heroine của người đàn ông không quen biết ở khu vực cầu Đồng Quang với giá 300.000 đồng. Sau khi mua về, Đ đã sử dụng hết 1 phần, phần còn lại đem cất vào vỏ bao thuốc lá T. Khi C gọi điện hỏi mua ma túy, Đ đã đồng ý bán cho C và bị bắt quả tang như trên. Do Đ không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông đã bán ma túy cho Đ nên cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ và xử lý.
Đối với Đinh Công C: là người hỏi mua ma túy của Vũ Văn Đ để sử dụng cho bản thân. Trưa ngày 24/8/2023, C gặp Đ để giao dịch mua bán ma túy. Tuy nhiên, C chưa kịp nhận ma túy do Đ đưa thì bị phát hiện và bắt quả tang. Qua xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của Đinh Công C cho kết quả: C dương tính với ma túy. Vì vậy, Công an huyện Ba Vì đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đinh Công C về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Khoản 1- Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ- CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ ( hình thức phạt Cảnh cáo).
Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong dán kín của phòng kỹ thuật hình sự- công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ kí và họ tên của các thành phần mở, đóng niêm phong; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, đã qua sử dụng, số imei: 359583/05/942679/3 ( của Đinh Công C); 01 điện thoại di động Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, số imei 1: 356940114610022, imei 2: 356940119610027 ( của Vũ Văn Đ) và số tiền 500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành.
Tại bản cáo trạng số: 133/CT-VKS ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Vũ Văn Đ về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã truy tố. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội tham gia phiên toà giữ quyền công tố phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình 2015, xử phạt bị cáo Vũ Văn Đ từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong tang vật mang tên Vũ Văn Đ do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội hoàn trả sau giám định; Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia (thu giữ của Vũ Văn Đ) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia (thu giữ của Đinh Công C); Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, thu giữ của Vũ Văn Đ); Trả lại số tiền 100.000 đồng (thu giữ của Vũ Văn Đ); Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Ba Vì, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vũ Văn Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại CQĐT, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ tang vật, lời khai người liên quan, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy HĐXX có đủ căn cứ xác định khoảng 10 giờ ngày 24/8/2023, Đ nhận được điện thoại của C hỏi mua 400.000đ ma túy heroin. Đ đồng ý, sau đó Đ hẹn C bến đò PT, xã KT, huyện BV, thành phố Hà Nội để giao dịch mua bán ma túy. Tại đây, C đưa Đ 400.000đ, Đ nhận tiền và đang giao ma túy cho C, đúng lúc này thì bị tổ công tác Công an xã Khánh Thượng và đội cảnh sát kinh tế ma túy Công an huyện Ba Vì tiến hành kiểm tra các đối tượng, do hoảng sợ, Đ đã thả gói ma túy và 400.000đ trên tay xuống đất. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật. Tại Bản kết luận giám định số 5820/KL-KTHS ngày 01/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,042 gam”. Do vậy HĐXX có đủ căn cứ chứng minh hành vi của Vũ Văn Đ thực hiện ngày 24/8/2023 đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do vậy việc truy tố để xét xử các bị cáo ra trước Tòa án của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, Hà Nội là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi các bị cáo thực hiện nhằm giáo dục riêng, phòng ngừa chung.
Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Văn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xét tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Qua phân tích và nhận định nêu trên, để đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tính chất vụ án, hành vi của các bị cáo đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, HĐXX nhận định: Bị cáo đang trong độ tuổi lao động bị cáo không chịu tu chí làm ăn, chỉ vì thỏa mãn bản thân nên đã bán trái phép chất ma túy, nhằm mục đích bán kiếm lời, bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, bị cáo buộc phải biết, ý thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe bản thân, tệ nạn gây mất trật tự trị an xã hội, là nguyên nhân lây truyền các bệnh HIV, reo rắc cái chết trắng cho cộng đồng, xã hội, hành vi của bị cáo thực hiện, xã hội đòi hỏi phải xử lý nghiêm minh mới có tác dụng răn đe bị cáo và những người khác, do vậy cần phải áp dụng điều 38 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 để quyết định một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội, nhằm giáo dục riêng, phòng ngừa chung, góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy.
Tại khoản 5 Điều 251 BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, nhưng xét điều kiện và hoàn cảnh kinh tế gia đình của các bị cáo khó khăn, chưa có công việc và thu nhập ổn định, bản thân các bị cáo là người mắc nghiện ma tuy, do vậy HĐXX xem xét miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đ: Đ khai: chiều ngày 23/8/2023, Đ mua 01 gói ma túy Heroine của người đàn ông không quen biết ở khu vực cầu Đồng Quang với giá 300.000 đồng. Sau khi mua về, Đ đã sử dụng hết 1 phần, phần còn lại đem cất vào vỏ bao thuốc lá T. Khi C gọi điện hỏi mua ma túy, Đ đã đồng ý bán cho C và bị bắt quả tang như trên. Do Đ không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông đã bán ma túy cho Đ nên cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ và xử lý là có căn cứ.
Đối với Đinh Công C, là người hỏi mua ma túy của Vũ Văn Đ để sử dụng cho bản thân. Trưa ngày 24/8/2023, C gặp Đ để giao dịch mua bán ma túy. Tuy nhiên, C chưa kịp nhận ma túy do Đ đưa thì bị phát hiện và bắt quả tang. Qua xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của Đinh Công C cho kết quả: C dương tính với ma túy. Vì vậy, Công an huyện Ba Vì đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đinh Công C về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Khoản 1- Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ- CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ ( hình thức phạt Cảnh cáo) là có căn cứ.
[3] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS vật chứng được xử lý như sau: Đối với: 01 phong bì niêm phong tang vật mang tên Vũ Văn Đ do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy. Đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia (thu giữ của Vũ Văn Đ) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia (thu giữ của Đinh Công C) xác định là công cụ, phương tiện phạm tội, sử dụng vào mục đích phạm tội, do vậy cần tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước. Đối với: số tiền 400.000 đồng (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ, thu giữ của Vũ Văn Đ), xác định là số tiền thu lời bất chính, do vậy cần tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước. Đối với: số tiền 100.000 đồng (thu giữ của Vũ Văn Đ) là số tiền riêng của Đ, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do vậy cần trả lại cho bị cáo là có căn cứ.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1./ Xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2./ Áp dụng : Khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo: Vũ Văn Đ: 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 24/8/2023.
3./ Vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội, bên ngoài có chữ ký và họ tên của các thành phần đóng, mở niêm phong.
- Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, đã cũ, đã qua sử dụng, số Imei: 359583/05/942679/3, không kiểm tra chất lượng máy. 01 điện thoại di động Nokia, màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng, số Imei 1: 356940114610022, số Imei 2: 356940119610027, không kiểm tra chất lượng máy. ( Như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/12/2023 giữa Công an huyện Ba Vì với Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội).
- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền: 400.000đ ( Bốn trăm nghìn đông), ( Theo Giấy nộp tiền ngày 05/12/2023 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Vì).
- Trả lại cho bị cáo Vũ Văn Đ số tiền: 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) ( Theo Giấy nộp tiền ngày 05/12/2023 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Ba Vì).
4./ Án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
Bị cáo Vũ Văn Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5./ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 147/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 147/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về