Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 143/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 143/2022/HS-PT NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo: Nguyễn Hoàng D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 93/2021/HS-ST ngày 30-11-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Hoàng D (Ty), sinh ngày 19/3/1990 tại Đà Nẵng. Nơi ĐKHKTT: Tổ 05, phường A, quận S, TP Đà Nẵng; Chỗ ở: Số 65 đường H, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn C (s) và bà Phạm Thị Thu Th (s); Gia đình bị cáo có ba anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ là Đào Thị Hồng C1 (đã ly hôn) và có 01 con (sinh năm 2013);

Tiền sự: Chưa;

Tiền án:

- Ngày 27/10/2016, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

- Ngày 27/4/2017, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS 1999. Ra trại ngày 30/4/2020.

Nhân thân: Ngày 10/5/2021, bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng xử phạt 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy đá và thuốc lắc” Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 4/5/2021, tạm giam ngày 13/5/2021, bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng D: Ông Bùi Xuân N2 - Luật sư công ty Luật TNHH MTV A1 thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, là người bào chữa theo yêu cầu của Tòa án, có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo khác, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18 giờ 30 phút ngày 04/5/2021, tại Khách sạn N3, số 65 H, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng, Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đặng Duy T1 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và tiến hành kiểm tra thu giữ:

Tang vật:

- 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước (15,5x9) cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng. Được niêm phong theo quy định pháp luật: Ký hiệu: T;

- 01(một) túi ni long màu đen;

- 01 (một) khẩu trang màu xanh;

- 01 (một) xe mô tô BKS: 92N1 – 135.79;

- 01(một) điện thoại di động màu xanh Vivo gắn Imel 1: 864361059942293, Imel 2: 864361059942285;

- Số tiền 900.000 đồng (Chín trăm ngàn đồng).

Vào lúc 21 giờ 10 phút ngày 04/5/2021, tại Công an phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Nẵng thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Hoàng D về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Thu giữ:

- 850.000 đồng (Tám trăm năm mươi ngàn đồng);

- 01 (một) ĐTDĐ màu vàng gắn sim: 0908.568.229, số Imel: 358606072029269;

- 01 (một) ĐTDĐ màu đen gắn sim1: 0905250174 và sim2: 0777447006, số Imel: 352125116047597.

Lúc 22 giờ 10 phút ngày 04/5/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Nẵng thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Nguyễn Hoàng D tại Phòng 301, 502 và quầy lễ tân khách sạn N3, số 65 đường H, quận S, thành phố Đà Nẵng, tiến hành kiểm tra thu giữ: Tang vật thu giữ:

- 01 (một) gói thuốc lá hiệu 555 bên trong có 02 (hai) gói nilong hàn dính vào nhau, bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể rắn màu trắng. Được niêm phong theo quy định pháp luật; Ký hiệu: B1.

- 01 (một) hộp kẹo màu đen bên trong có 05 (năm) gói nilong kích thước khoảng (1x3) cm bên trong mỗi gói đều chứa các tinh thể rắn màu trắng. Được niêm phong theo quy định pháp luật; Ký hiệu: B2.

- 01 (một) hộp giấy màu đen kích thước khoảng (11x18x3) cm bên trong có:

+ 04 (bốn) gói nilong bên trong mỗi gói đều chứa tinh thể rắn màu trắng.

+ 01 (một) gói nilong bên trong có chứa một viên nén màu tím và hai mảnh vỡ của viên nén màu xám.

+ 01 (một) gói nilong bên trong có một gói nilong chứa chất bột màu trắng dạng cục.

+ 01 (một) gói nilong bên trong có một gói nilong chứa 04 (bốn) viên nén màu đỏ và mảnh vỡ của viên nén màu đỏ trong bao nilong nhỏ.

+ 01 (một) gói nilong bên trong có chứa 63 (sáu mươi ba) viên nén màu xám.

Tất cả được niêm phong theo quy định của pháp luật. Ký hiệu B3.

+ 01 (một) cân tiểu ly.

+ 10 (mười) gói ni long chưa qua sử dụng.

Lúc 00 giờ 30 phút ngày 05/5/2021, tại Công an phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Cơ quan CSĐT CATP Đà Nẵng thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tấn H2 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ:

- 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước (6x10) cm bên trong có chứa các tinh thể rắn màu trắng. Niêm phong theo quy định pháp luật. Ký hiệu H;

- 01 (một) ĐTDĐ có chữ Iphone màu hồng, gắn sim: 0934.939.894, số Imel: 355351085925665;

- 01 (một) xe sirius gắn BKS: 43H1-02315;

- 01 (một) áo khoác màu đen.

Tại Kết Luận giám định số 128/GĐ-MT ngày 18.5.2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

Tinh thể rắn màu trắng trong các gói niêm phong ký hiệu T, B1, B2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; Khối lượng tinh thể mẫu T: 98,9 gam, B1: 9,652 gam, B2: 0,68 gam.

Tinh thể rắn màu trắng, 04 viên nén màu đỏ và mảnh vỡ của viên nén màu đỏ trong các mẫu ký hiệu B3a, B3h gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine; Khối lượng mẫu B3a: 14,719 gam, B3h: 0,48 gam.

Tinh thể rắn màu trắng trong các mẫu ký hiệu B3b gửi giám định là ma túy loại Ketamine; Khối lượng mẫu B3b: 5,623 gam.

Tinh thể rắn màu trắng trong gói niêm phong ký hiệu H gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, Ketamine; Khối lượng tinh thể mẫu H: 5,658 gam.

Chất bột màu trắng dạng cục trong mẫu ký hiệu B3c gửi giám định là ma túy, loại Heroin; khối lượng mẫu B3c: 1,576 gam.

Viên nén màu tím, 02 mảnh vỡ của viên nén màu xám, 63 viên nén màu xám trong các mẫu ký hiệu B3d, B3e, B3k gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu B3d: 0,576 gam; B3e: 0,386 gam; B3k: 31,607 gam.

Quá trình điều tra xác định như sau:

Khoảng tháng 02/2021, Nguyễn Hoàng D có bạn Trần Văn T2 nhờ trông coi khách sạn giúp vì dịch bệnh anh T2 kinh doanh thua lỗ (khách sạn này T2 cũng là người đi thuê lại kinh doanh). Trong quá trình trông coi khách sạn Nguyễn Hoàng D đã thuê Nguyễn Tuấn T3, Võ Thị H2 Nguyễn Trọng P1 làm nhân viên lễ tân, giữ xe…Từ đây D bắt đầu hoạt động mua bán trái phép chất ma túy, nguồn ma túy ban đầu là do D mua của các đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) để bán lại. Sau đó, D mua của hai nam thanh niên tên Tuân và Hòa (không rõ nhân thân lai lịch), D bảo Đặng Duy T1 và Nguyễn Tấn H2 đi giao, nhận ma túy và trả công bằng cách cho ma túy sử dụng hoặc cho tiền để tiêu xài cá nhân. D sử dụng khách sạn N3 làm nơi cất giấu và mua bán ma túy.

* Nguyễn Hoàng D đã mua ma túy của Hòa được 02 (hai) lần, trong đó chỉ đạo H2 trực tiếp nhận ma túy 01 (một) lần:

- Lần 1: Thông qua mối quan hệ xã hội giới thiệu, vào khoảng 16h00’ ngày 29/4/2021 có một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) đến gặp Nguyễn Hoàng D để “chào hàng” các loại ma túy rồi đưa cho D 03 (ba) viên thuốc lắc, 01 (một) gói Ketamine và 01 (một) gói ma túy đá để thử và kiểm tra chất lượng, nếu đạt chất lượng thì giới thiệu Hòa để D liên hệ mua. Sau đó, người thanh niên cho D số điện thoại của Hòa. Số ma túy mà người thanh niên mang đến thử, D đã sử dụng hết cùng với T1, H2, P2, P2, H2, T3 vào tối ngày 29/4/2021.

Vào khoảng trưa ngày 01/5/2021, D liên hệ với Hòa và hẹn Hòa đến khách sạn N3 để gặp gỡ và trao đổi việc mua bán ma túy. Khi gặp H2, D trao đổi muốn mua 30 gam ma túy đá với giá 9.000.000đ (chín triệu đồng), 10 gam Ketamine với giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng) và 100 viên thuốc lắc với giá 18.000.000đ (mười tám triệu đồng). Hòa đồng ý bán và hẹn sẽ giao ma túy sau. Sau đó Hòa đi đâu đó, vài giờ sau quay lại thì giao cho D số ma túy đã thỏa thuận và có tặng thêm ma túy hồng phiến, Heroin để nếu có ai mua thì bán. D giao tiền 33.000.000đ (ba mươi ba triệu) rồi Hòa ra về. Số ma túy này D đã phân chia ra bán một phần, phần còn lại thì bị thu giữ khi khám xét tại khách sạn N3.

- Lần 2: Vào chiều ngày 04/5/2021, khi H2 đang đi giao ma túy ở Quảng Nam giúp cho D thì D điện thoại cho H2 để nhờ H2 đi đến khu vực trạm thu phí quốc lộ 1A, thuộc Điện Bàn, Quảng Nam để gặp Hòa nhận gói ma túy Ketamine, D mua với giá 8.000.000đ (tám triệu đồng). Đợt này D mua nợ, hẹn bán xong sẽ trả tiền. H2 đồng ý đi, khi đến nơi H2 gặp Hòa và nhận gói Ketamine cất vào túi áo cùng chùm chìa khóa, trên đường về thì gói ni long chứa ma túy bị đâm rách nên rơi ma túy ra đáy túi áo, còn gói ni long thì H2 vứt đi. Khi về đến khách sạn N3 thì H2 bị mời về làm việc, sau đó bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì phát hiện thu giữ ma túy.

* Nguyễn Hoàng D đã mua ma túy của Tuân được 01 (một) lần và chỉ đạo T1 đi giao dịch mua ma túy, cụ thể:

Lúc 14h00’ ngày 04/5/2021, D gặp Tuân tại Khách sạn N3 và thỏa thuận muốn mua 100 (một trăm) gam ma túy đá với giá 28.000.000đ (hai mươi tám triệu), D sẽ trả trước 11.000.000đ (mười một triệu), số còn lại sẽ trả sau. Tuân đồng ý và hẹn gặp giao dịch tại khu vực trước trường Đại Học Duy Tân, đường Hoàng Minh Thảo, Đà Nẵng.

Lúc 17h00’ ngày 04/5/2021, D gọi T1 qua khách sạn N3 rồi đưa cho T1 11.000.000đ (mười một triệu đồng) bảo đi lên khu vực trường Đại Học Duy Tân, đường Hoàng Minh Thảo, Đà Nẵng gặp Tuân để mua ma túy. T1 đồng ý và dùng xe mô tô BKS: 92N1-135.79 đi đến gặp Tuân giao dịch. Sau đó, T1 mang gói ma túy về đến khách sạn N3 thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ số ma túy vừa mua.

T1 và H2 đều biết mục đích của D mua ma túy về là để bán lại cho người khác và họ đã nhiều lần giao ma túy giúp cho D, Cụ thể:

* Nguyễn Tấn H2 đi giao ma túy cho Nguyễn Hoàng D nhiều lần, cụ thể:

- Vào trưa ngày 01/5/2021 D đưa cho H2 02 (hai) gói thuốc lá 555 bên trong mỗi gói đều có chứa 10 gam ma túy đá, để H2 đi giao cho hai người ở Quảng Nam, gồm: Một người nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực trường Huỳnh Thúc Kháng, thị trấn Hương An, Quảng Nam gói ma túy đá với giá 5.000.000đ; một người nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực gần trạm thu phí, Điện Bàn, Quảng Nam gói ma túy đá với giá 5.000.000đ. H2 đồng ý và làm theo, khi đến các địa điểm giao dịch, H2 vứt hộp thuốc chứa ma túy xuống ven đường rồi điện thoại cho người mua ra lấy rồi H2 về lại khách sạn N3.

- Khoảng 23h00’ ngày 03/5/2021 D điện thoại cho H2 chỉ đạo lấy gói ma túy đá trong hộp kẹo màu đen để tại quầy lễ tân của khách sạn N3 để bán cho một người nam thanh niên (không rõ lai lịch). H2 đồng ý và làm theo, giao ma túy xong người thanh niên đưa H2 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) rồi H2 mang lên đưa lại cho D tại phòng 502 của khách sạn.

- Trưa ngày 04/5/2021 D đưa cho H2 một gói thuốc lá con ngựa bên trong chứa 05 (năm) gam ma túy đá, nhờ đi giao cho người nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực trường Huỳnh Thúc Kháng, thị trấn Hương An, Quảng Nam (người đã mua ma túy ngày 01/5/2021), lần này người thanh niên mua nợ. H2 đồng ý và lấy ma túy đi giao, khi đến điểm hẹn H2 vứt gói ma túy xuống bên lề đường, rồi gọi điện cho người mua ra lấy. Sau đó H2 đi về thì D có gọi điện cho H2 để nhờ đi nhận ma túy Ketamine như trên. Số điện thoại này D, H2 đã xóa sau khi giao dịch.

* Đặng Duy T1 đã đi giao ma túy cho D được 02 (hai) lần, cụ thể:

- Lần 1: Khoảng giữa tháng 4/2021, T1 đang ở khách sạn N3 thì D gọi điện cho T1 bảo lấy gói ma túy đá trong bao thuốc lá để trên bàn thờ ông địa dưới tầng 01 giao giúp cho một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch), rồi lấy tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). T1 đồng ý và giao giúp rồi mang tiền lên phòng 502 đưa lại cho D.

- Lần 2: Khoảng cuối tháng 4/2021, T1 đang ở khách sạn N3 thì D gọi điện cho T1 bảo lấy gói ma túy đá trong bao thuốc lá để trên bàn thờ ông địa dưới tầng 01 giao giúp cho một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch), rồi lấy tiền 200.000đ (hai trăm ngàn đồng). T1 đồng ý, giao xong thì mang tiền lên phòng 502 đưa lại cho D.

Nguyễn Thị Mỹ P2 là người yêu của Nguyễn Hoàng D, khoảng đầu tháng 4/2021 P2 về ở cùng D tại phòng 502 khách sạn N3. Trong thời gian này thì P2 biết D có mua bán trái phép chất ma túy vì P2 nhìn thấy D có nhiều biểu hiện nghi vấn nên hỏi trực tiếp thì D thừa nhận là có mua bán ma túy. Vào ngày 02/5/2021, D có mượn điện thoại của P2 để nhắn tin trao đổi về việc bán ma túy cho đối tượng Hoàng (không rõ nhân thân lai lịch) với số lượng 03 (ba) viên thuốc lắc, giá 350.000đ/1 viên, địa điểm giao dịch là tại số 65 H, Đà Nẵng. Sau đó P2 có đọc được tin nhắn này và P2 biết D cất giấu ma túy trong hộp giấy để trên bàn trong phòng 502.

Nguyễn Thị Mỹ P2 thừa nhận việc biết D mua bán trái phép chất ma túy và cất giấu số ma túy trong phòng 502, còn các vị trí khác P2 không biết, nhưng do tình cảm giữa hai người nên P2 không tố giác với Cơ quan Công an.

Tại bản án hình sự sơ thẩm 93/2021/HS-ST ngày 30-11-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

I/ Tuyên bố:

Các bị cáo Nguyễn Hoàng D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g, h khoản 1 Điều 52;

điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng D tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 04/5/2021.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền: 30.000.000đ.

Ngoài ra bản án còn quyết định về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác trong vụ án (bị cáo Đặng Duy T1, Nguyễn Tấn H2, Nguyễn Thị Mỹ P2), phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/12/2021 bị cáo Nguyễn Hoàng D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng D, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xem xét ý kiến của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát; sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoàng D thừa nhận hành vi phạm tội và tội danh như Toà án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là đúng, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Lúc 18h30’ ngày 04/5/2021, tại Khách sạn N3, số 65 H, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng, Phòng CSĐT tội phạm về ma túy - Công an thành phố Đà Nẵng, bắt quả tang Đặng Duy T1 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ ma túy loại Methamphetamine; khối lượng 98,9 gam. Số ma túy này T1 đi nhận giúp đem về giao cho Nguyễn Hoàng D thì bị bắt quả tang, ngoài ra T1 đã đi giao ma túy giúp cho D 02 lần.

Lúc 22h10’ ngày 04/5/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Nẵng thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Nguyễn Hoàng D tại Phòng 301, 502 và quầy lễ tân khách sạn N3, 65 đường H, quận S, thành phố Đà Nẵng, thu giữ ma túy các loại gồm có Methamphetamine, khối lượng 25,531 gam; Ketamine, khối lượng 5,623 gam; Heroin, khối lượng 1,576 gam; MDMA, khối lượng 32,569 gam nhằm mục đích mua bán.

Lúc 00h30’ ngày 05/5/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Nẵng, thu giữ của Nguyễn Tấn H2 đang cất giấu ma túy trong túi áo loại Methamphetamine, Ketamine, khối lượng 5,658 gam. Số ma túy này H2 đi nhận giúp đem về giao cho Nguyễn Hoàng D thì bị bắt, đồng thời H2 cũng là người đi giao ma túy cho D 03 lần.

Tổng trọng lượng ma túy các loại là 149,857g gồm Methamphetamine: 124,431 gam; MDMA: 32,569 gam; Ketamine: 5,623 gam; Heroin: 1,576 gam và 5,658 gam chứa cả Methamphetamine và Ketamine, Nguyễn Hoàng D phải chịu trách nhiệm.

Với hành vi phạm tội đó, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Hoàng D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Ngay trong đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo (có xác nhận của Trại tạm giam-BL558), bị cáo đã viết: Nay tôi làm đơn này trình lên quý cấp với cả nỗi lòng sâu sắc của bản thân với sự ăn năn hối cải với việc làm sai trái dẫn đến vi phạm pháp luật trong hoàn cảnh của tôi, vợ chồng bất hoà, hoàn cảnh gia đình khó khăn, tinh thần suy sụp nên dẫn đến hành vi phạm tội, nay rất ân hận, nhận thức rõ sai trái, vì vậy xin được giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên Toà án cấp phúc thẩm thấy rằng, vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng D đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã mua bán ma túy nhiều lần, bán nhiều loại ma túy và bán cho nhiều người nên phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo Nguyễn Hoàng D đã từng bị xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Như vậy, bị cáo phải chịu hai tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi xét xử sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là tự thú và thành khẩn khai báo. Trong giai đoạn phúc thẩm, mặc dù Luật sư bào chữa cho bị cáo có xuất trình các tài liệu thể hiện bà ngoại bị cáo là người có công tuy nhiên đây là tình tiết giảm nhẹ quy định ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những vấn đề phân tích và lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, Toà án cấp sơ thẩm xét xử vụ án có căn cứ và đúng pháp luật, hình phạt tuyên đối với bị cáo tương xứng với tính chất hành vi, hậu quả của vụ án và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay;

kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo không có cơ sở nên không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo, như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm hôm nay.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng D (Ty), giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng D tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 04/5/2021.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền: 30.000.000đ.

Về án phí phúc thẩm hình sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 143/2022/HS-PT

Số hiệu:143/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;