TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 143/2021/HSST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 142/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021, theo quyết định đưa ra xét xử số 141/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 với bị cáo:
Nguyễn Quang C, sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn 1, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Quang H; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị N; Bị cáo có vợ là Trương Hồng L (đã ly hôn) , chưa có con chung; Tiền án, tiền sự: 01 Tiền sự- Ngày 02/6/2020, Công an quận L, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 05/6/2021. Hiện đang bị tạm giam Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1980 Trú tại: Thôn V, xã T, huyện V, tỉnh Hưng Yên. (Vắng mặt tại phiên tòa).
2. Anh Lê Ngọc A, sinh năm: 1980 Trú tại: Tổ A, thị trấn T, huyện G, thành phố Hà Nội.
(Vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 05/6/2021, C đi xe ôm của một người không rõ nhân thân từ gầm cầu Th đến khu vực cầu Vi và mua 07 gói ma túy Heroine với giá 1.300.000 đồng của một người đàn ông không rõ nhân thân. Sau khi mua được ma túy, C mang ma túy về nhà và sử dụng hết 6 gói, còn 01 gói C cất giấu trong phòng ngủ riêng tại nhà ở thôn 1, xã Đ, huyện G, Hà Nội. Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 05/6/2021, khi C đang ở nhà thì Nguyễn Văn T sử dụng số điện thoại 09612769xx gọi vào số điện thoại 09670395xx của C để hỏi mua 200.000 đồng ma tuý Heroine, C đồng ý bán và hẹn giao ma túy ở gầm cầu Th. Sau đó C cầm 01 gói ma túy và đi bộ từ nhà đến gầm cầu Th để bán ma tuý cho T. Khi đến gầm cầu Th, C đứng đợi thì thấy T và Lê Ngọc A- Sinh: 1980, trú tại Tổ A, TT T, huyện G, Hà Nội đi xe máy BKS 29N8-5714 đến. T hỏi C có phải là người bán ma túy không thì C nhận ra giọng T đã nói chuyện qua điện thoại nên gật đầu. T đưa cho C số tiền 180.000 đồng, sau đó T bảo Ngọc A đưa thêm số tiền 20.000 đồng. Do C nghĩ T thiếu tiền và vay Ngọc A 20.000 đồng nên C cầm 20.000 đồng của Ngọc A. Khi C cầm đủ 200.000 đồng trong lòng bàn tay phải và chuẩn bị đưa ma túy cho T thì lực lượng Công an đến kiểm tra. Do hoảng sợ, C đã thả gói ma túy Heroine từ lòng bàn tay trái xuống đất, ngay cạnh chân C đứng. Sau đó cơ quan Công an yêu cầu và C nhặt lên, giao nộp cho cơ quan Công an và khai nhận đó là gói ma túy C dùng để bán kiếm lời.
Vật chứng thu giữ của Nguyễn Quang C: 01 gói giấy nhỏ màu trắng kích thước 1,5x1cm, bên trong chứa chất bột màu trắng; số tiền 200.000 đồng; 01 điện thoại di động viền màn hình màu trắng và mặt lưng điện thoại màu vàng đồng, kiểu dáng Iphone 6 Plus, lắp sim số 09670395xx.
Tạm giữ của Nguyễn Văn T: 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia 1280 có số sim 09612769xx, đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu Well, kiểu dáng Future, BKS 29N8-5714, số khung: 002193, số máy 02083193, đã qua sử dụng.
Tại bản Kết luận giám định số 4627/KLGĐ-PC09, ngày 11/6/2021, của phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,186 gam.
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T và Lê Ngọc A khai nhận góp chung tổng số tiền 200.000 đồng để mua ma túy của C nhưng T và Ngọc A đều không nói cho C biết. Chỉ có T gọi điện và giao dịch mua ma túy với C. Do vậy, không có căn cứ xử lý đối với C về hành mua bán ma tuý 02 người trở lên.
Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Quang C, hiện không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra Công an huyện G không có căn cứ xử lý.
Đối với Nguyễn Văn T và Lê Ngọc A mua ma túy của C nhưng chưa nhận được ma túy. Qua xét nghiệm Ngọc A và T thể hiện âm tính với ma túy nên không có căn cứ xử phạt hành chính.
Chiếc điện thoại di động 01 điện thoại di động viền màn hình màu trắng và mặt lưng điện thoại màu vàng đồng, kiểu dáng Iphone 6 Plus, lắp sim số 09670395xx (thu giữ của bị cáo Nguyễn Quang C) và 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia 1280 có số sim 09612769xx, đã qua sử dụng (thu giữ của Nguyễn Văn T). Quá trình điều tra xác định C và T dùng hai chiếc điện thoại này để liên lạc mua bán ma túy với nhau.
Số tiền 200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Quang C liên quan đến việc C bán ma túy cho T.
Chiếc xe máy nhãn hiệu Well, kiểu dáng Future, BKS 29N8-5714, số khung: 002193, số máy 02083193, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác minh đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn H1, sinh: 1968, địa chỉ: thôn T, Xã Đ, huyện G, Hà Nội. Ngày 5/6/2021, anh H1 cho T mượn xe nhưng không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy. Do vậy Cơ quan điều tra - Công an huyện G đã trả chiếc xe trên cho anh Nguyễn Văn H1.
Tại Bản cáo trạng số 144/CT-VKSGL ngày 30 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố bị cáo Nguyễn Quang C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Quang C khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận đã có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố tại phiên tòa hôm nay và xác nhận hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ và hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo với nội dung Cáo trạng truy tố.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang C phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, xử phạt Nguyễn Quang C từ 28 tháng tù đến 32 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Cho tịch thu tiêu hủy: 01(Một) phong bì niêm phong có chữ ký xác nhận niêm phong của Giám định viên, cán bộ niêm phong và của Nguyễn Quang C. Trong gói niêm phong là ma túy Heroine, có khối lượng 0,175gam do phòng PC09- Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau khi giam định(Đã trích mẫu 0,011gam);
- Cho tịch thu sung công 01(Một) chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu vàng đồng, bên trong lắp sim liên lạc: 09670395xx, máy cũ đã qua sử dụng, đã thu giữ của Nguyễn Quang C.
- Cho tịch thu sung công 01(Một) chiếc điện thoại di động Nokia, bên trong lắp sim liên lạc 09612769xx, máy cũ đã qua sử dụng, đã thu giữ của Nguyễn Văn T.
- Tịch thu sung công số tiền 200.000 đồng.
Trong phần Tranh luận bị cáo không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng, bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với sơ đồ hiện trường, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Hồi 11 giờ 20 phút ngày 05/6/2021, tại khu vực gầm cầu Th thuộc thôn 1, Xã Đ, huyện G, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Quang C đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy loại Heroin, khối lượng 0,186 gam mục đích để bán kiếm lợi nhưng bị cáo C chưa kịp giao ma túy thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Quang C đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng.
Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự- sửa đổi bổ sung năm 2017.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề tự do thu nhập không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - Đối với số lượng ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo cần cho tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo C(là tiền do anh Nguyễn Văn T và Lê Ngọc A đưa cho C để mua ma túy) liên quan đến hành vi phạm tội nên cho tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với 01(Một) chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu vàng đồng, bên trong lắp sim liên lạc: 09670395xx, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Quang C và 01(Một) chiếc điện thoại di động Nokia, bên trong lắp sim liên lạc 09612769xx, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn T, đều liên quan đến hành vi phạm tội nên cho tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[6] Bị cáo, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang C 26(Hai mươi sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2021.
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng:
- Cho tịch thu tiêu hủy: 01(Một) phong bì niêm phong có chữ ký xác nhận niêm phong của Giám định viên, cán bộ niêm phong và của Nguyễn Quang C. Trong gói niêm phong là ma túy Heroine, có khối lượng 0,175gam do phòng PC09- Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau khi giam định(Đã trích mẫu 0,011gam);
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01(Một) chiếc điện thoại di động Iphone 6, màu vàng đồng, bên trong lắp sim liên lạc: 09670395xx, máy cũ đã qua sử dụng.
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01(Một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia phím bấm, màu xanh, đã qua sử dụng, trong lắp sim số 09612769xx.
(Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, thành phố Hà Nội ngày 07 tháng 9 năm 2021).
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0054862 ngày 10/9/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện G, thành phố Hà Nội.
4. Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T và anh Lê Ngọc A có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 143/2021/HSST
Số hiệu: | 143/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về