TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 21/11/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 21/11/2023 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử lưu động sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2023/TLST-HS, ngày 26/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST-HS ngày 07/11/2023 đối với bị cáo:
Lý Thị P(Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày: 01/01/2002; Tại: Quỳnh Nhai, Sơn La.
Nơi ĐKHKTT: bản Đ, xã T, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Con ông: Lý A N, sinh năm: 1983 và bà: Mùa Thị V – Sinh năm: 1985; Bị cáo có chồng: Sùng A C – Sinh năm: 1997 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2020, con nhỏ nhất sinh năm 2022;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ hồi 12 giờ 50 phút ngày 03/6/2023 đến ngày 12/6/2023 và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. (Có mặt tại phiên tòa).
Người phiên dịch cho bị cáo là anh Giàng A C – Sinh năm: 1996; Địa chỉ: bản Tu San, xã T, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu (có mặt tại phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo Lý Thị P là ông Lê Mạnh H – Là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt tại phiên tòa).
Ngƣời làm chứng:
1/ Sùng A Ch, sinh năm: 1997; Giàng Thị N, sinh năm: 1969; cùng địa chỉ: bản Đ, xã T, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.
2/ Cứ A C, sinh năm: 1960; địa chỉ: bản N, xã T, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.
3/ Mùa A D, sinh năm: 1989; địa chỉ: bản Tr, xã H, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
(những người làm chứng vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 00 phút ngày 03/6/2023, tại khu 7, thị trấn Than Uyên, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, Công an huyện Than Uyên phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính đối với Mùa A D, sinh năm 1989, trú tại bản Tr, xã H, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ 01 mảnh giấy bạc đã than hóa, 01 bật lửa ga. Mùa A D khai nhận số Heroine sử dụng do Mùa A D và Cứ A C, sinh năm 1960, trú tại bản Nậm Pắt, xã T, huyện Than Uyên mua của Lý Thị P, trú tại bản Đ, xã T. Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập Cứ A C lên làm việc, Cứ A C thừa nhận cùng Mùa A D mua Heroine của Lý Thị P sử dụng.
Giữ người và khám xét khẩn cấp nơi ở của Lý Thị P, Cơ quan điều tra thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có 54 gói Heroine được gói bằng các mảnh nilon màu trắng (do Lý Thị P tự giác lấy tại bờ ao của gia đình ra giao nộp) và số tiền 550.000 đồng.
Tại cơ quan điều tra, Lý Thị P khai nhận: khoảng 08 giờ ngày 01/6/2023, Lý Thị P đang ở nhà tại bản Đ, xã T thì bà Giàng Thị N, sinh năm 1969 (là mẹ chồng của Lý Thị P) có đưa cho P 01 gói Heroine và bảo Lý Thị P bán để lấy tiền chi tiêu cho gia đình. Sau đó, Lý Thị P lấy gói Heroine chia ra thành nhiều gói nhỏ và gói lại bằng các mảnh nilon màu trắng, cất giấu trong tủ quần áo của Lỳ Thị P. Đến khoảng 17 giờ ngày 02/6/2023, khi Lý Thị P đang ở nhà tại bản Đ, xã T thì Cứ A C và Mùa A D đến nhà P, Cứ A C trực tiếp gặp Lý Thị P hỏi mua Heroine, Lý Thị P đã bán cho Cứ A C 06 gói Heroine lấy 300.000 đồng. Sau khi bán Heroine cho Cứ A C, Lý Thị P mang số Heroine còn lại ra bờ ao của gia đình cất giấu. Mua được Heroine của Lý Thị P, Cứ A C và Mùa A D đi khỏi nhà Lý Thị P rồi cùng nhau sử dụng hết một phần trong gói Heroine đó. Số Heroine còn lại chưa sử dụng hết, Mùa A D mang về và sử dụng tại khu 7, thị trấn Than Uyên sử dụng tiếp thì bị Công an huyện Than Uyên phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính.
Cơ quan điều tra đã tiến hành giữ người, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Giàng Thị N. Đồng thời tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để điều tra làm rõ theo lời khai của Lý Thị P về nguồn gốc Heroine thu giữ. Tuy nhiên, Giàng Thị N không thừa nhận việc đưa Heroine cho Lý Thị P.
Tại bản kết luận giám định tư pháp số 88/KLGĐ ngày 03/6/2023 của người giám định theo vụ việc Công an huyện Than Uyên và kết luận giám định số: 668 ngày 07/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: số chất bột, màu trắng thu giữ của Lý Thị P có tổng khối lượng 2,82 gam; là ma túy; loại Heroine”.
Tại bản kết luận giám định số: 669 ngày 08/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: số tiền 550.000 đồng thu giữ của Lý Thị P là tiền thật.
Vật chứng còn lại của vụ án: 2,59 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 bật lửa ga đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc đã than hóa, 55 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; số tiền 550.000 đồng thu giữ của Lý Thị P. Hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên.
Bản cáo trạng số: 159/CT-VKS ngày 25/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đã truy tố bị cáo Lý Thị P về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lý Thị P phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lý Thị P từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Khấu trừ cho bị cáo 09 ngày tạm giữ (từ ngày 03/6/2023 đến ngày 12/6/2023). Thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại của bị cáo tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 - Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo.
Về vật chứng: áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 – Bộ luật Hình sự; điểm a,b,c khoản 2 điểm a khoản 3 Điều 106 – Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm: 2,59 gam Heroine là vật cấm tàng trữ, 01 bật lửa ga đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc đã than hóa, 55 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu là vật không còn giá trị sử dụng; số tiền 550.000 đồng trong đó có 300.000 đồng là tiền bán Heroine nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; số tiền còn lại không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.
Về án phí: miễn 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Thị P.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa: nhất trí về tội danh cũng như điều luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo; giải quyết vật chứng theo quy định.
Bị cáo không bổ sung ý kiến gì thêm, nhất trí và không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết là đã vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:
Do ý thức coi thường pháp luật nên ngày 02/6/2023, tại bản Đ, xã T, bị cáo Lý Thị Pđã có hành vi bán trái phép 06 gói Heroine cho Cứ A C thu lợi số tiền 300.000 đồng. Hành vi bị phát hiện, Lý Thị P tự giao nộp thêm 54 gói Heroine có tổng khối lượng 2,82 gam, mục đích để bán kiếm lời.
Hành vi nêu trên của bị cáo Lý Thị P đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự nên việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức coi thường pháp luật và nhằm thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy mà không phải bỏ mồ hôi công sức nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần phải xử lý nghiêm minh.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn theo quy định. Vì vậy, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự 2015.
Ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và các luận cứ người bào chữa đưa ra tại phiên tòa về tội danh, điều, khoản truy tố, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật. Song Hội đồng xét xử thấy rằng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đề nghị mức hình phạt có phần nghiêm khắc bởi lẽ bị cáo Lý Thị Plà người dân tộc thiểu số, tuổi đời còn trẻ, nhận thức còn nhiều hạn chế, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo đang nuôi 03 con nhỏ trong đó có hai con dưới 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét xử xem xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và cộng đồng xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo Lý Thị P chưa có tiền án, tiền sự, là người phụ nữ, lẽ ra bị cáo phải tích cực lao động sản xuất, nuôi dạy các con, nhưng bị cáo không làm được điều đó, vì muốn có nguồn thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội mà pháp luật nghiêm cấm.
Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo, để bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng sự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và cũng nhằm mục đích đấu tranh và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề trồng trọt, không có thu nhập nào khác, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng các hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 - Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[7] Biện pháp ngăn chặn: Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
[8] Về vật chứng của vụ án gồm: 2,59 gam Heroine là vật cấm tàng trữ; 01 bật lửa ga đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc đã than hóa, 55 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu là vật không còn giá trị sử dụng; số tiền 550.000 đồng trong đó có 300.000 đồng là tiền bán Heroine nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; số tiền còn lại 250.000 đồng không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.
Về nguồn gốc số Heroine bị cáo Lý Thị P khai do mẹ chồng là Giàng Thị N đưa cho bán lấy tiền tiêu cho gia đình, nhưng quá trình đối chất Giàng Thị N không thừa nhận, ngoài lời khai của Lý Thị P không còn chứng cứ nào khác chứng minh lời khai nêu trên, do đó nên không có căn cứ để điều tra xử lý đối với Giàng Thị N.
Đối với hành vi của Cứ A C mua Heroine cho Mùa A D sử dụng chỉ mang tính giản đơn, không có sự chỉ huy, phân công, điều hành, chuẩn vị cung cấp địa điểm, phương tiện, dụng cụ vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, nên không xem xét xử lý Cứ A C về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Cứ A C và Mùa A D, Công an huyện Than Uyên đã ra quyết định xử lý hành chính là đúng quy định.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc phủ phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2025 do bị cáo Lý Thị P là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm b, c khoản 1 Điều 47 – Bộ luật Hình sự.
Căn cứ điểm a,b,c khoản 2 điểm a khoản 3 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên bố bị cáo: Lý Thị P phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý".
1. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Lý Thị P 03 (ba) năm tù. Khấu trừ cho bị cáo 09 (chín) ngày tạm giữ (từ ngày 03/6/2023 đến ngày 12/6/2023). Thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại của bị cáo là 02 (hai) năm 11 (mười một) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 2,59 gam Heroine; 01 bật lửa ga đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy bạc đã than hóa, 55 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng.
Trả lại cho bị cáo Lý Thị P số tiền 250.000 đồng không liên quan đến vụ án.
(Tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Than Uyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên ngày 30/10/2023).
3. Về án phí: Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Thị P.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân cấp trên để xét xử phúc thẩm.
Bản án 14/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 14/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về