TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 28/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 tại Tây Ninh.
Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: làm mướn; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1963 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1967, vợ tên Võ Thị Mỹ P, con có 02 người con, nhỏ nhất sinh năm 2018, lớn nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17-12-2021, chuyển tạm giam từ ngày 20-12- 2021 đến nay (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Nguyễn Văn T là người nghiện ma tuý, bị cáo mua ma tuý của người tên T1 (không rõ họ tên và địa chỉ) tại khu vực cầu Bầu Nâu thuộc xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đem về chia ra thành nhiều bịch nhỏ để sử dụng và bán lại cho người khác cụ thể:
Khoảng 10 giờ ngày 16-12-2021, T bán cho Nguyễn Đức B 01 bịch ma tuý với số tiền 200.000 đồng, giao hàng tại nhà của B thuộc ấp Bưng Rò, xã Hoà Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Khoảng 18 giờ ngày 16-12-2021, T bán cho B 01 bịch ma tuý với số tiền 300.000 đồng giao nhận tại quán ăn Hoàng T thuộc khu vực ấp Bố Lớn, xã Hoà Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.
Đến khoảng 12 giờ 20 phút ngày 17-12-2021, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên B điện thoại cho T mua 01 bịch ma tuý giao tại nhà B với giá 300.000 đồng thì T đồng ý. Sau đó, T lấy bịch ma tuý, bên ngoài có dán băng keo màu đen cất giấu ở nhà bếp và điều khiển xe mô tô biển số 70K3-9519 đến điểm hẹn để giao. Khi T và B vừa giao ma tuý và nhận tiền xong thì bị bắt quả tang.
* Tại Kết luận giám định số 1587/KL-KTHS ngày 20-12-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:
- Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 (một) bịch nylon màu trắng được hàn kín, bên ngoài có dán băng keo màu đen (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0465 gam.
Đối với người tên T1 bán ma túy cho bị cáo T do kh ng r tên và địa chỉ cụ thể nên ơ quan ảnh sát điều tra ng an huyện Châu Thành tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Đức B có hành vi sử dụng trái phép ma tuý, ơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng.
Đối với ông Lê Thành T, sinh năm 1979, ngụ ấp Trường Lộc, xã Trường Tây, thị xã Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh là chủ sở hữu xe mô tô biển số 70K3- 9519. Ông Tiến cho T mượn xe nhưng kh ng biết việc T sử dụng để đi mua bán ma tuý nên đã trả lại xe mô tô biển số 70K3-9519 cho ông Tiến.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại F9, màu xanh, mặt kính sau bị vỡ, số IMEI 1: 866376045477210, số IMEI 2: 866376045477202 (đã qua sử dụng);
- 01 (một) B dụng cụ sử dụng ma túy;
- 01 (một) kéo kim loại;
- 01 bật lửa - Tiền Việt Nam 300.000 đồng.
* Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có tài sản nên không tiến hành kê biên.
Tại bản Cáo trạng số: 06/CT-VKSCT ngày 07-01-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 07 năm đến 08 năm tù. Áp dụng khoản 2 Điều 35; khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của ơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của ơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của ơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Trong khoảng thời gian từ ngày 16 đến ngày 17-12-2021, Nguyễn Văn T mua ma tuý đem về nhà, chia ra thành nhiều bịch nhỏ để sử dụng và bán lại cho Nguyễn Đức B sử dụng 03 lần. Vào ngày 17-12-2021, tại ấp Bưng Rò, xã Hoà Hội, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, T đang bán cho B 01 bịch ma tuý với khối lượng 0,0465 gam loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang. Nên hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do đó, áo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Bị cáo là người thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được chất ma túy là rất độc hại, cấm tàng trữ trái phép, nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; đồng thời xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, phòng ngừa các loại tội phạm về ma túy và có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tự khai ra những lần phạm tội trước đó. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 2 Điều 35; khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về xử lý vật chứng:
- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 (một) kéo kim loại và 01 bật lửa là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại F9, màu xanh, mặt kính sau bị vỡ, số IMEI 1: 866376045477210, số IMEI 2: 866376045477202 (đã qua sử dụng) và tiền Việt Nam 300.000 đồng là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội và khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
Ngoài ra ngày 16-12-2021, bị cáo bán ma tuý cho B 02 lần số tiền 500.000 đồng là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên buộc bị cáo nộp lại số tiền 500.000 đồng trên để tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
ăn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17-12-2021.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 (một) kéo kim loại và 01 bật lửa.
- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại F9, màu xanh, mặt kính sau bị vỡ, số IMEI 1: 866376045477210, số IMEI 2: 866376045477202 (đã qua sử dụng), Tiền Việt Nam 300.000 đồng.
- Buộc bị cáo T nộp lại số tiền thu lợi bất chính ngày 16-12-2021 là 500.000 (năm trăm ngàn) đồng để tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.
(Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21-01- 2022).
3. Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án hình sự sơ thẩm xử c ng khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST
Số hiệu: | 12/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/01/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về