Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 117/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 117 /2020/HS-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 112/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Triệu Thị Th, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1971 tại Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn K, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Triệu Quang C (đã chêt); con bà: Lê Thị Đ, sinh năm 1936; gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ năm; chồng: Nguyễn Đình N, sinh năm 1964, có 03 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 2006; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/6/2020 đến ngày 05/6/2020 chuyển tạm giam, đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đoàn Hữu L, sinh năm 1954; trú tại: Thôn Đ1, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

- Người chứng kiến:

- Ông Vũ Huy D, sinh năm 1954; Địa chỉ: Thôn Đ1, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

- Anh Phan Thế Th1, sinh năm 1979; Trú tại: Thôn 2, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 01/6/2020, Triệu Thị Th thuê xe ôm của một người nam giới không quen biết đi từ nhà ra khu vực cầu C1 thuộc địa phận phường Quang Trung, thành phố Thái Bình để mua ma túy về bán kiếm lời. Tại đây, Th gặp và mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi và địa chỉ được 01 gói ma túy giá 2.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Th mang về nhà một mình dùng dao lam chia gói ma túy vừa mua thành 16 phần, Th lấy ống hút nước hoa quả bằng nhựa nhặt được trước đó cắt thành từng đoạn nhỏ và lấy bốn phần ma túy cho vào bốn đoạn ống nhựa rồi dùng nến dính gắn kín hai đầu lại, sau đó bỏ bốn đoạn ống này vào một túi nilon trong suốt để ở nền nhà tầng một. Th dùng giấy trắng và mảnh nilon màu đen gói 12 phần còn lại thành 12 gói, mỗi gói được gói lớp bên trong là giấy trắng và bên ngoài nilon màu đen, sau đó Th bỏ 12 gói này vào hộp nhựa hình trụ bên ngoài ghi chữ “VitaminB1” rồi cho vào túi nilon trong suốt treo trên tường trong nhà vệ sinh. Đến 20 giờ 30 phút ngày 02/6/2020 Th đang ở nhà thì có ThĐoàn Hữu Lđến mua 500.000 đồng cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi vào nhà vệ sinh lấy 01 gói ma túy ra đưa cho L, khi L vừa nhận gói ma túy của Th, cất vào túi quần thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và ông Vũ Huy D và anh Phan Thế Th1, Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra người L thu giữ tại túi quần bên trái phía trước 01 gói bên ngoài được gói bằng túi nilon màu đen, tiếp là lớp giấy trắng, trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, loại hêrôin có khối lượng 0,0328 gam (niêm phong ký hiệu M1); thu tại túi quần bên trái phía trước của L 01 điện thoại Nokia vỏ màu đen đã cũ, số tiền 500.000 đồng và 01 cáp ghi số đề gồm số 50,58,73,10,94 mỗi con bằng 5 vạch, số đề 63 bằng 10 vạch. Kiểm tra người Th thu tại túi quần bên phải phía trước số tiền 600.000 đồng, trong đó gồm: 01 tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng có số sơri YF 16893050, tờ tiền này Th khai là tiền vừa bán ma túy cho L và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng có số sơri NM 16411834; thu trên tay của Th 01 điện thoại Nokia màu xanh đã cũ. Kiểm tra người và phương tiện của Vũ Văn Th2 là người đi cùng với L không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản quản lý, niêm phong vật chứng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Triệu Thị Th phát hiện và thu giữ: Tại nền nhà tầng một phía bên trong 01 túi nilon trong suốt, bên trong có bốn đoạn ống hút nước hoa quả bằng nhựa được gắn kín hai đầu, trong đó có 03 ống màu tím trắng, 01 ống màu xanh trắng, bên trong các ống đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, là ma túy, loại hêrôin có tổng khối lượng 0,1078 gam (niêm phong ký hiệu M2). Thu trên tường treo trong nhà vệ sinh một túi nilon trong suốt bên trong có một hộp nhựa hình trụ, trên hộp có chữ “VitaminB1” bên trong hộp có 11 gói mỗi gói được gói bên ngoài nilon màu đen, lớp trong là giấy trắng chứa chất bột màu trắng dạng cục, là ma túy, loại hêrôin có tổng khối lượng 1,8581 gam (niêm phong ký hiệu M3). Thu tại gầm cầu thang tầng một 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế bằng thủy tinh. Thu trên giường ngủ ở nhà ngang 01 cân điện tử màu xám bạc có dòng chữ “HoaHang”.

Tại bản kết luận giám định số 200/KLGĐ-PC09 ngày 04 tháng 6 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong các phong bì niêm phong: M1 gửi giám định mà ma túy, loại hêrôin có khối lượng 0,0328 gam; M2 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin có khối lượng 0,1078 gam; M3 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin có khối lượng 1,8581 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Triệu Thị Th không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 113/CT-VKSTP ngày 10 tháng 08 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Triệu Thị Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu Thị Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Triệu Thị Th từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 02/6/2020; phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy trong phong bì, bên ngoài ghi: “số 200/KLGĐ-PC09 mẫu vật hoàn trả sau giám định”; 01 cân điện tử màu xám bạc có dòng chữ “Hoahang; 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế bằng thủy tinh; 01 cáp ghi số đề.

- Tịch thu số tiền 500.000 đồng do bị cáo bán ma túy mà có để nộp ngân sách Nhà nước.

- Trả lại cho Anh Đoàn Hữu L số tiền 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen đã cũ.

- Trả lại bị cáo Triệu Thị Th 01 điện thoại Nokia màu xanh đã cũ và số tiền 100.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo Triệu Thị Th nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 02/6/2020, tại nơi ở của Triệu Thị Th có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy, loại hêrôin có khối lượng 0,0328 gam cho ThĐoàn Hữu Lthì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo Th còn cất giấu trái phép tại nơi ở của mình 1,9659 gam ma túy, loại hêrôin với mục đích bán kiếm lời. Tổng số ma túy loại hêrôin thu giữ là 1,9987 gam. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 21 giờ 20 phút ngày 02 tháng 6 năm 2020; biên bản niêm phong vật chứng; biên bản tạm giữ đồ vật; biên bản quản lý và kiểm tra điện thoại; kết luận giám định; biên bản khám nghiệm; biên bản lấy lời khai của người chứng kiến; biên bản lấy lời khai của người liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

…….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến năm 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Triệu Thị Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Th thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” , xét thấy bị cáo Th thực hiện phạm tội mục đích bán ma túy để kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo 03 ống màu trắng tím, 01 ống màu xanh trắng, bên trong các ống đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, là ma túy, loại hêrôin có tổng khối lượng 0,1078 gam (niêm phong ký hiệu M2); 11 gói chất bột màu trắng dạng cục, là ma túy, loại hêrôin có tổng khối lượng 1,8581 gam (niêm phong ký hiệu M3), được niêm phong trong phong bì niêm phong số 200/KLGĐ-PC09 là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Đối với 01 cân điện tử màu xám bạc có dòng chữ “Hoahang; 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế bằng thủy tinh; 01 cáp ghi số đề, tài sản này không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7.3] Đối với 01 điện thoại Nokia màu xanh đã cũ và số tiền 100.000 đồng của bị cáo Th không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[7.4] Đối với số tiền 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen đã cũ thu của Anh Đoàn Hữu L, không liên quan đến hành vi phạm tội. Vì vậy cần trả lại cho Anh Đoàn Hữu L là phù hợp.

[7.5] Đối số tiền 500.000 đồng thu của bị cáo Th liên quan đến việc bán ma túy cho anh L mà có, nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Th khai mua của một người đàn ông, không biết tên, địa chỉ tại khu vực cầu Cống Trắng, thuộc phường Quang Trung, thành phố Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Đối với Anh Đoàn Hữu L là người mua ma túy của bị cáo Th để sử dụng cho bản thân, nhưng L chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến ma túy, khối lượng ma túy không đủ lượng để cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi mua số lô đề của một người không quen biết của L, Công an thành phố Thái Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC/PC04 và 16/QĐ-XPHC/PC04 đối với ThĐoàn Hữu Lđều bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[10] Đối với anh Vũ Văn Th2 là người được L thuê chở đi, Th2 không biết L đi mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Triệu Thị Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Triệu Thị Th 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 6 năm 2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Triệu Thị Th 5.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy trong phong bì, bên ngoài ghi: “số 200/KLGĐ-PC09 mẫu vật hoàn trả sau giám định” và 01 cân điện tử màu màu xám bạc có dòng chữ “Hoahang; 01 bình sử dụng ma túy đá tự chế bằng thủy tinh; 01 cáp ghi số đề.

3.2. Tịch thu số tiền 500.000 đồng của bị cáo Th để nộp ngân sách Nhà nước.

3.3. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 100.000 đồng, nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

3.4. Trả lại cho Anh Đoàn Hữu L số tiền 500.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 10 tháng 8 năm 2020 và 01 phong bì, bên trong có chứa số tiền 600.000 đồng (gồm 1 tờ mệnh giá 500.000 đồng có số seri YF 16893050 và 01 tờ mệnh giá 100.000 đồng, có số seri NM 16411834) của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Bị cáo Triệu Thị Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (01/9/2020). Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 117/2020/HS-ST

Số hiệu:117/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;