Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 11/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Vừ Thị X – (tên gọi khác: Không), Sinh ngày: 13/08/1992 tại SH, Lai Châu.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn LC, xã NCS, thị xã SP, tỉnh Lào Cai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Mông; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Vừ A L (đã chết); Con bà: Mùa Thị S sinh năm 1973; Gia đình bị cáo có 04 chị, em ruột. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; bị cáo có chồng: Giàng A P, sinh năm 1980, bị cáo có 01 người con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Vừ Thị X bị bắt tạm giữ từ ngày 17/09/2022 đến ngày 13/09/2022. Bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Lai Châu áp dụng biện pháp ngăn chặn theo Lệnh tạm giam số 121 cho đến nay “có mặt” Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Giàng A L, sinh năm 2001.

Địa chỉ: Thôn LC, xã NCS, thị xã SP, tỉnh Lào Cai “có mặt”.

Chị Giàng Thị CH, sinh năm 2007.

Địa chỉ: Thôn LC, xã NCS, thị xã SP, tỉnh Lào Cai “có mặt”.

Người đại diện theo pháp luật cho Giàng Thị CH: Ông Giàng A P, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Thôn LC, xã NCS, thị xã SP, tỉnh Lào Cai “có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H và bà Nông Thị Hồng H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 16/9/2022, Vừ Thị X đang làm thuê tại khu vực Cổng trời thuộc bản CVX, xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu thì có một người phụ nữ dân tộc Mông, X không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể sử dụng số thuê bao X.564.271 gọi điện thoại cho X qua số thuê bao X.589.807, điện thoại nhãn hiệu TECNO, cảm ứng, màu xanh (đây là điện thoại X mượn của Giàng Thị CH, sinh năm 2007, trú tại Thôn LC, xã NCS, thị xã SP, tỉnh Lào Cai) hỏi có biết ai bán ma túy không và nói người phụ nữ này muốn mua 03 chỉ ma túy, X trả lời không biết. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày có một người đàn ông giới thiệu tên S, X không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của S dùng số thuê bao X.567.121 gọi điện thoại đến cho X và bảo S đang có 03 chỉ ma túy muốn bán, X có biết ai có nhu cầu mua ma túy không? X bảo với S có một người phụ nữ dân tộc Mông đã gọi điện thoại và bảo X muốn mua 03 chỉ ma túy. S bảo với X ngày mai (tức ngày 17/9/2022) S mang bán ma túy cho X 03 chỉ ma túy với giá 2.000.000 đồng/01 chỉ để X bán lại cho người phụ nữ dân tộc Mông với giá 3.0000.000 đồng/01 chỉ và nói bán được ma túy thì X mới phải trả tiền cho S, X đồng ý. Khoảng hơn 18 giờ cùng ngày, X gọi điện cho người phụ nữ dân tộc Mông bảo có 03 chỉ ma túy bán với giá 3.0000.000 đồng/01 chỉ người phụ nữ dân tộc Mông đồng ý.

Sáng ngày 17/9/2022, Vừ Thị X gọi điện cho người phụ nữ dân tộc Mông và hẹn nhau khoảng 17 giờ đến 18 giờ ngày 17/9/2022 sẽ đến khu vực Cổng trời thuộc bản CVX, xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu để trao đổi, mua bán ma túy. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, sau khi trao đổi với người phụ nữ dân tộc Mông, Vừ Thị X điều khiển xe mô tô BKS 24B1 - X (là xe X mượn của Giàng A L để làm phương tiện đi làm thuê) đi về hướng thị xã SP được khoảng 50m thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi đi cùng một người đàn ông (X không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của hai người này) đang đứng ở mép đường. Trong lúc đứng chờ S mang ma túy đến thì người phụ nữ dân tộc Mông mang số tiền 9.000.000 đồng ra cho X xem nhưng chưa đưa cho X cầm tiền. Một lúc sau, S điều khiển xe mô tô X không biết là xe gì, cũng không biết Biển kiểm soát của xe đi từ hướng thị xã SP đến chỗ X và người phụ nữ dân tộc Mông và người đàn ông đang đứng. S đưa cho X 01 gói ma túy được gói ngoài bằng nilon màu xanh, nhận ma túy từ S thì X quay lại chỗ hai người mua ma túy đang đứng còn S điều khiển xe mô tô quay về hướng thị xã SP, đi đâu X không biết. X đặt gói ma túy xuống đất, cạnh chân X đang đứng để thử nhưng chưa kịp thử thì đã bị tổ công tác Phòng PC04 - Công an tỉnh Lai Châu phát hiện. Người phụ nữ dân tộc Mông và người đàn ông bỏ chạy thoát, X bị tổ công tác giữ lại. Vừ Thị X đã thừa nhận với tổ công tác gói dưới chân X là ma túy của X mua về với mục đích bán kiếm lời, khi X đang thực hiện hành vi mua bán thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang. Vừ Thị X đã tự giác nhặt gói ma túy lên và giao nộp cho tổ công tác Công an tỉnh Lai Châu. Tổ công tác Phòng PC04 - Công an tỉnh Lai Châu đã mời người chứng kiến, chính quyền địa phương tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vừ Thị X về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số 777/KL-KTHS, ngày 18/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận:

Gói chất bột màu trắng thu giữ của Vừ Thị X có khối lượng 11,5gam (Mười một phẩy năm gam) Tại bản Kết luận giám định số 778/KL-KTHS, ngày 20/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận:

Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKSTĐ, ngày 27/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường truy tố bị cáo Vừ Thị X về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Vừ Thị X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vừ Thị X từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 17/09/2022).

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại 10,38 gam được gói lại cho vào một túi ni lông màu trắng cùng vỏ gói ni lông cũ, phong bì niêm phong cũ ban đầu được cho vào trong một phong bì Công văn do Công an tỉnh Lai Châu phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước bì niêm phong ghi: Vật chứng còn lại vụ án Vừ Thị X: Mua bán trái phép chất ma túy. Phòng PC04 bắt ngày 17/9/2022. Khối lượng còn lại 10,38 gam chất bột nghi Heroine. Mặt sau trên một mép dán có dán một mảnh giấy trắng trên mảnh giấy có chữ ký ghi rõ họ tên của các ông/bà: Nguyễn Duy N, Nguyễn Thành L, Lê Thị Thu N, Trần Thị Mai D, 01 dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Vừ Thị X và đóng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lai Châu và được dán đè một lớp băng dính màu trắng đè lên các chữ ký và hình dấu; 01 (một) sim điện thoại, trên sim có in chữ “vinaphone” và dãy số “898402000”, “11403050428”.

Trả lại cho Giàng A L: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SiRius RC, màu đỏ - đen, BKS: 24B1 – X; Số máy không xác định được; Số khung: RLCUE1710FY018284. Xe cũ, đã qua sử dụng và 01 (Một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 0020176; tên chủ xe: Lý A Sà; biển số đăng ký: 24B1 - X; cấp ngày: 21/11/2015; nơi cấp: Công an tỉnh Lào Cai (bản gốc).

Trả lại cho Giàng Thị CH: 01 (Một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng vỏ màu xanh, nhãn hiệu TECNO. Số IMEI: 356782981465027. Máy cũ đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Vừ Thị X đã phân tích đánh giá các tình tiết của vụ án, hành vi, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, hành vi của bị cáo được phát hiện kịp thời, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhất thời phạm tội, nhận thức pháp luật còn hạn chế, hám lợi nhất thời. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền; đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo; đề nghị áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Trả lại cho Giàng A L: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SiRius RC, màu đỏ - đen, BKS: 24B1 – X; Số máy không xác định được; Số khung: RLCUE1710FY018284. Xe cũ, đã qua sử dụng và 01 (Một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 0020176; tên chủ xe: Lý A Sà; biển số đăng ký: 24B1 - X; cấp ngày: 21/11/2015; nơi cấp: Công an tỉnh Lào Cai (bản gốc). Trả lại cho Giàng Thị CH: 01 (Một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng vỏ màu xanh, nhãn hiệu TECNO. Số IMEI: 356782981465027. Máy cũ đã qua sử dụng.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Vừ Thị X đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định:

Vào hồi 18 giờ 20 phút, ngày 17 tháng 09 năm 2022, tại khu vực Cổng trời thuộc bản CVX, xã SB, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu Vừ Thị X đang có hành vi bán trái phép cho một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ nhân thân, lai lịch một gói Heroine có tổng khối lượng 11,5 gam với giá 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng). Khi X đang thực hiện bán Heroine cho người phụ nữ dân tộc Mông thì bị Tổ công tác Phòng PC04 - Công an tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang, còn người phụ nữ dân tộc Mông và một người đàn ông đi cùng lợi dụng sơ hở đã bỏ chạy. Tổ công tác PC04 - Công an tỉnh Lai Châu đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng đúng quy định.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cho bản thân nên đã thúc đẩy bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Nội dung bản Cáo trạng truy tố, căn cứ đề nghị của Viện kiểm sát huyện Tam Đường đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Bị cáo có đủ điều kiện nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, gây tổn hại cho sức khỏe của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Nhà nước ta đang đấu tranh quyết liệt để loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội và xử phạt nghiêm khắc đối với những người nào có các hành vi liên quan đến ma túy, Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng mức án, hình phạt theo quy định của pháp luật. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông tên S, sử dụng số thuê bao X.567.121 để liên lạc, trao đổi bán Heroine cho X. Cơ quan điều tra đã gửi tra cứu thông tin về người đăng ký số thuê bao X.567.121: Kết quả tên chủ thuê bao là Hàng A Phình, sinh năm 1996, trú tại Tổ 2, phường SPP, thị xã SP, tỉnh Lào Cai. Quá trình điều tra xác định Hàng A Phình khẳng định số thuê bao này đã bị mất cách đây 4 năm, hiện Phình không còn sử dụng số thuê bao trên, Hàng A Phình không quen biết với Vừ Thị X và người đàn ông tên S.

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 40 tuổi và người đàn ông đi cùng mua Hêroine của X do nhân thân lai lịch của hai người này không rõ ràng. Kết quả tra cứu chủ thuê bao số X.564.271 của người phụ nữ dân tộc Mông dùng để liên lạc mua Heroine của X là của Sùng A V, sinh năm 1971, trú tại bản HTM, xã LNT, huyện PT, tỉnh Lai Châu. Qua xác minh, hiện tại Sùng A V không có mặt tại địa phương. Do vậy, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh, làm rõ trong cùng vụ án.

Đối với Giàng Thị CH là chủ sở hữu hợp pháp chiếc điện thoại đi động màn hình cảm ứng, màu xanh, nhãn hiệu TECNO, số IMEI: 356782981465027; Giàng A L là chủ sở hữu hợp pháp xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Sirius RC màu đỏ - đen, BKS: 24B1 - X. Chú và L hoàn toàn không biết việc X sử dụng điện thoại và xe mô tô làm phương tiện liên lạc, đi lại để trao đổi mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy, Giàng Thị CH và Giàng A L không đồng phạm với Vừ Thị X về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

[3] Vật chứng:

Một phong bì niêm phong làm bằng một phong bì công văn do Công an tỉnh Lai Châu phát hành dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng còn lại vụ án Vừ Thị X: Mua bán trái phép chất ma túy. Phòng PC04 bắt ngày 17/9/2022. Khối lượng còn lại 10,38 gam chất bột nghi Heroine. Mặt sau trên một mép dán có một mảnh giấy trắng trên mảnh giấy có chữ ký ghi rõ họ tên của các ông/bà: Nguyễn Duy N, Nguyễn Thành L, Lê Thị Thu N, Trần Thị Mai D, 01 dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Vừ Thị X và đóng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lai Châu và được dán đè một lớp băng dính màu trắng đè lên các chữ ký và hình dấu;

Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SiRius RC màu Đỏ - đen. BKS: 24B1 - X; Số máy không xác định được; Số khung: RLCUE1710FY018284. Xe cũ, đã qua sử dụng;

Một điện thoại di động loại màn hình cảm ứng vỏ màu xanh, Nhãn hiệu TECNO. Số IMEI: 356782981465027. Máy cũ, đã qua sử dụng.

Một sim điện thoại, trên sim có in chữ “vinaphone” và dãy số “898402000”, “11403050428”.

[4] Án phí:

Áp dụng điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn xét nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vừ Thị X.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vừ Thị X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vừ Thị X 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn từ được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 17/09/2022).

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong làm bằng một phong bì công văn do Công an tỉnh Lai Châu phát hành dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng còn lại vụ án Vừ Thị X: Mua bán trái phép chất ma túy. Phòng PC04 bắt ngày 17/9/2022. Khối lượng còn lại 10,38 gam chất bột nghi Heroine. Mặt sau trên một mép dán có một mảnh giấy trắng trên mảnh giấy có chữ ký ghi rõ họ tên của các ông/bà: Nguyễn Duy N, Nguyễn Thành L, Lê Thị Thu N, Trần Thị Mai D, 01 dấu điểm chỉ ngón trỏ phải của đương sự Vừ Thị X và đóng hai hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Lai Châu và được dán đè một lớp băng dính màu trắng đè lên các chữ ký và hình dấu; Một sim điện thoại, trên sim có in chữ “vinaphone” và dãy số “898402000”, “11403050428”.

Trả lại cho Giàng A L: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SiRius RC, màu đỏ - đen, BKS: 24B1 – X; Số máy không xác định được; Số khung: RLCUE1710FY018284. Xe cũ, đã qua sử dụng và 01 (Một) chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 0020176; tên chủ xe: Lý A Sà; biển số đăng ký: 24B1 - X; cấp ngày: 21/11/2015; nơi cấp: Công an tỉnh Lào Cai (bản gốc).

Trả lại cho Giàng Thị CH: 01 (Một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng vỏ màu xanh, nhãn hiệu TECNO. Số IMEI: 356782981465027. Máy cũ đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 27/12/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đường với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).

4. Về án phí:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vừ Thị X.

5, Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn mười lăm ngày lên Toà án cấp trên kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 11/2023/HS-ST

Số hiệu:11/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;