Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 10/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 9 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Lò Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 07/6/1981, tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản U, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn H, sinh năm 1961 và bà Lò Thị L, sinh năm 1964; có vợ Bạc Thị B, sinh năm 1983 và 02 người con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án: Không, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/10/2021, bị tạm giam từ ngày 07/10/2021 tại trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T: Bà Triệu Thị H, Luật sư Văn phòng Luật sư K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 40 phút ngày 04/10/2021, tổ Công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Điện Biên phối hợp cùng Công an xã Noong L, Công an xã Noong H trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực thôn 24, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thì phát hiện một đối tượng là nam giới điều khiển xe máy HONDA WAVE màu đỏ biển kiểm soát 27M1-0512 đi từ xã P lên khu vực chợ B rồi đi vào trong bến xe khách B và để xe máy ở dưới sân bến xe đi lên phòng nghỉ số 203 của nhà nghỉ bến xe. Thấy đối tượng có nhiều biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật, tổ công tác đã mời anh Trần Văn L là người chứng kiến cùng tổ công tác vào phòng 203 để kiểm tra. Khi tổ công tác vừa mở cửa phòng 203 thì có một đối tượng là nam giới lao ra ngoài bỏ chạy thoát. Tổ công tác đã bắt giữ được đối tượng nam giới còn lại ở trong phòng 203 chính là đối tượng nam giới điều khiển xe máy HONDA WAVE màu đỏ biển kiểm soát 27M1-0512. Qua kiểm tra đối tượng tên là Lò Văn T, sinh ngày 07/6/1981, tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản U, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Phát hiện thu giữ trên tay trái của đối tượng Lò Văn T đang cầm 01 găng tay vải màu đen bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng đục có kích thước to nhỏ khác nhau nghi là Heroine được bọc bằng hai lớp túi nilon bên trong màu hồng, bên ngoài màu đen. Lò Văn T khai nhận số chất bột màu trắng đục trên là Heroine của đối tượng đang giao dịch bán cho người mua thì bị phát hiện bắt quả tang. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng để điều tra làm rõ.

Tại Bản Kết luận giám định số 1162/GĐ-PC09 ngày 14/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 66,99 gam.

- Mẫu chất bột màu trắng được trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại Bản Cáo trạng số 92/CT-VKS-P1 ngày 22/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:

- Áp dụng điểm b Khoản 3 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo Lò Văn T từ 16 (Mười sáu) đến 17 (Mười bảy) năm tù.

- Không áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 65,57 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại đi động nhãn hiệu VIVO màu hồng loại màn hình cảm ứng.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không tranh luận gì đối với đại diện Viện kiểm sát, không bổ sung gì đối với nội dung bài bào chữa của Luật sư. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T là bà Triệu Thị H nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và nhất trí với bản luận tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b Khoản 3 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo Lò Văn T, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Lò Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm đã phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các bản hỏi cung của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào ngày 04/10/2021 và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng của vụ án, bị cáo Lò Văn T đã khai rằng:

Khoảng 11 giờ trưa ngày 02/10/2021 T điều khiển xe máy mang theo 11.700.000 đồng đi từ nhà ở bản U, xã Noong L, huyện Đ đến khu vực bản N, xã P, huyện Đ với mục đích tìm mua ma túy về để bán kiếm lời và sử dụng. T gặp hai người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, hai người này đưa T đi bộ đến khu vực H, thuộc bản N, xã P, T thỏa thuận và đưa 10 triệu đồng nhờ mua hộ Heroine. Khoảng 5 phút sau người thanh niên đi mua ma túy quay lại đưa cho T một túi nilon màu đen, nói bên trong có 1,7 cây Heroine giá 17 triệu đồng, khi nào bán được thì mang tiền ra ngã ba bản N thanh toán. T đồng ý rồi trả cho hai người 1,7 triệu đồng tiền công đi mua hộ ma túy, T cất gói Heroine vừa mua được vào túi quần rồi điều khiển xe máy đi về.

Ngày 03/10/2021, có một người đàn ông giới thiệu tên H nhà ở thị xã M gọi điện hỏi mua Heroine, thỏa thuận giá 01 cây Heroine là 17 triệu đồng, 1,7 cây Heroine bán với giá 28.900.000 đồng và hẹn thời gian địa điểm mua bán. Sáng ngày 04/10/2021 sau khi nhận được điện thoại của H, T cho gói Heroine vào chiếc găng tay vải màu đen đeo bên tay trái, điều khiển xe máy HONDA WAVE BKS 27M1-0512, đến nhà nghỉ bến xe khách B, thuộc khu vực thôn 4, xã N, huyện Đ, T để xe máy bên dưới đi lên phòng 203 nhà nghỉ gặp H, khi đang trao đổi mua bán thì bị tổ công tác phát hiện bắt giữ, cùng vật chứng 01 gói Heroine có khối lượng 66,99 gam, lợi dụng sơ hở H bỏ chạy thoát không bắt giữ được.

Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi nêu trên của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bởi vậy bị cáo phải chịu hình phạt do pháp luật quy định.

[2] Xét về tính chất của vụ án thấy rằng:

Như chúng ta đều biết ma túy nói chung và Heroine nói riêng là một loại độc dược có nguy hại tới nhiều mặt của đời sống đối với con người, ma túy đã trở thành hiểm họa của cả loài người. Vì vậy cả thế giới đã chung tay chống lại các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy, ma tuý còn là một trong những nguyên nhân làm gia tăng căn bệnh xã hội phát triển và cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh một số loại tội phạm. Trong những năm gần đây các loại tội phạm về ma túy đang có chiều hướng gia tăng, và còn diễn biến phức tạp tại tỉnh Điện Biên. Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T khai rằng biết rõ tác hại của ma túy tới đời sống, sức khỏe của con người và biết rõ pháp luật trừng trị rất nghiêm minh đối với các loại tội phạm về ma túy, nhưng do hám lời nên bị cáo đã hành vi mua bán trái phép chất ma túy có tổng khối lượng 66,99 gam Heroine, hành vi này của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo còn làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Điện Biên nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bởi vậy tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố và kết luận bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố và kết luận đối với bị cáo Lò Văn T như đã phân tích ở trên là hoàn toàn chính xác, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, thấy rằng:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, bị cáo không có việc làm ổn định, do điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên đã có hành vi phạm tội, Sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, do đó Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là cần thiết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:

- Áp dụng điểm b Khoản 3 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo Lò Văn T tù 16 (Mười sáu) đến 17 (Mười bảy) năm tù.

- Không áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 66,99 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại đi động nhãn hiệu VIVO màu hồng loại màn hình cảm ứng.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Tại phiên tòa, luật sư Triệu Thị H là người bào chữa cho bị cáo đã phân tích tính chất của vụ án, nhân thân bị cáo, nêu ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo do bị cáo Lò Văn T là dân tộc thiểu số. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ nên cần chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là nông nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 66,99 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu hồng loại màn hình cảm ứng, bị cáo dùng vào việc liên lạc với đối tượng mua bán ma túy là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Lò Văn T là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Về các vấn đề khác:

Theo lời khai của bị cáo Lò Văn T, hai người đàn ông là người bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được họ tên địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với người đàn ông tên H nhà ở thị xã M là người mua ma túy của bị cáo, do không xác định được địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh điều tra làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b Khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T (tên gọi khác: Không) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b Khoản 3 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/10/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 65,57 gam Heroine là vật chứng của vụ án còn lại sau khi giám định.

* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO màu hồng loại máy màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 22/11/2021).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/12/2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 10/2021/HS-ST

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;