TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 101/2021/HS-ST NGÀY 24/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:
CẤN VĂN H, sinh ngày 01 tháng 02 năm 1975 tại xã Ph, huyện P, TP Hà Nội Nơi cư trú: Thôn 3, xã Ph, huyện P, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cấn Văn L (đã chết) và bà Dương Thị Th (đã chết); Vợ: K Thị N; Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2007.
Tiền án: Có 01 tiền án: Tại Bản án số 28/HSST ngày 20/6/2012, Tòa án nhân dân huyện P, Thành phố Hà Nội, xử phạt 09 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/6/2019 (chưa được xóa án tích).
Tiền sự: Không;
Nhân thân: Đã 05 lần bị kết án, cụ thể:
- Bản án số 08/HSST ngày 27/02/1993 của Tòa án nhân dân huyện P, Thành phố Hà Nội, xử phạt 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội: Trộm cắp tài sản của công dân.
- Bản án số 24/HSST ngày 27/6/1994 của Tòa án nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội, xử phạt 12 tháng tù về tội: Cướp giật tài sản của công dân.
- Bản án số 750/HSPT ngày 28/5/1997 của Toà án nhân dân tối cao, xử phạt 06 năm tù về tội: Tổ chức dùng chất ma tuý. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/6/2002.
- Bản án số 13/HSST ngày 30/8/2004 của Tòa án nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội, xử phạt 24 tháng tù. Về tội: Trộm cắp tài sản.
- Bản án số 08/HSST ngày 29/02/2008 của Tòa án nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội, xử phạt 24 tháng tù. Về tội: Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/6/2009.
(Các bản án trên đã được xoá án tích) Tạm giữ; Tạm giam: từ ngày 01/9/2021 đến nay tại Trại tạm giam số 01 Công an TP Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người tham gia tố tụng khác:
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Phí Văn K, sinh năm 1971 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 2, xã Ng, huyện P, TP Hà Nội;
- Bà K Thị N, sinh năm 1977 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn 3, xã Ph, huyện P, TP Hà Nội
Người làm chứng:
- Ông Trần Duy S, sinh năm 1946 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 2, xã Ph, huyện P, TP Hà Nội;
- Anh Đỗ Đình Đ, sinh năm 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 4, xã Ph, huyện P, TP Hà Nội;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 01/9/2021, đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma tuý, Công an huyện P phối hợp với Công an xã Ph, huyện P đi tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, phát hiện bắt quả tang đối tượng Cấn Văn H cất giữ 01 gói nhỏ chứa chất bột màu trắng, tại Thôn 2, xã Ph, huyện P, Hà Nội. Khi tổ công tác phát hiện, H hoảng sợ đã buông gói ma túy xuống đường gần nơi H đứng. Làm việc với tổ công tác, H khai gói chất bột vừa buông xuống đường là ma tuý loại Heroine mang đi để bán cho Phí Văn K, sinh năm 1971, trú tại Thôn 2, xã Ng, huyện P. Cùng lúc đó, lực lượng Công an phát hiện thấy Phí Văn K đang có mặt ở gần vị trí H bị bắt giữ, cách khoảng 50m. Làm việc với Cơ quan Công an, K khai đi đến gặp H để mua ma tuý về sử dụng cá nhân.
Vật chứng thu giữ gồm: - Thu của H 01 gói giấy màu trắng, kích thước khoảng 1,5cm x1,5cm, bên trong có lớp nilon tiếp theo là lớp giấy chứa cục chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ; 01 xe máy Dream BKS 30F9-1088; số tiền 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng).
- Thu của K số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động có chữ Realme đã cũ.
Ngày 01/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Phúc Thọ ra quyết định trưng cầu giám định số 148 giám định 01 gói chứa chất bột màu trắng thu giữ của H như trên. Tại bản kết luận giám định số: 6649/KLGĐ-PC09 ngày 09/9/2021, Phòng kĩ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:
“Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bọc ngoài bằng nilon là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,183 gam” Quá trình điều tra xác định: H và K là bạn bè xã hội và cùng nghiện chất ma tuý. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 01/9/2021, K sử dụng điện thoại di động số thuê bao 0398.207.301 gọi điện đến thuê bao số 0392.019.788 cho H, hỏi mua 500.000 đồng tiền ma tuý Heroin. H đồng ý, khi kiểm tra thấy gói nhỏ ma túy không đủ bán 500.000 đồng, nên H gọi điện lại cho K và nói “Không có 500.000 đồng đâu, chỉ còn đủ 300.000 đồng thôi”. K đồng ý mua, rồi hai bên hẹn nhau ra khu ngõ trước cửa nhà Văn hóa thôn Tây (Thôn 2, xã Ph) để giao dịch mua bán ma tuý. H cất gói ma túy Heroine vào trong túi quần bên trái đang mặc, đi xe máy Dream đeo biển kiểm soát 30F9-1088 đến chỗ hẹn, khi đến không thấy K nên H gọi điện cho K để hỏi xem đến chưa, đúng lúc đó thì gặp lực lượng Công an đi đến, do hoảng sợ H đã lấy gói ma túy cất trong túi quần đang mặc buông xuống đường, lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng liên quan.
Về nguồn gốc ma tuý: H khai mua số ma túy đó ngày 30/8/2021 với giá 600.000 đồng của 01 người nam giới lạ mặt, không rõ họ tên, lý lịch, tại khu vực gần cây xăng thị xã S, Hà Nội. H mang ma tuý mua được về chia ra làm 02 lần sử dụng, đã sử dụng một phần còn lại cất giữ, thì K điện thoại hỏi mua nên H bán để kiếm lời. Ngoài lời khai của H không có tài liệu, chứng cứ nào khác, cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh làm rõ người bán ma túy cho H nên không đề cập xử lý trong vụ án này.
Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 30F9-1088, đăng ký xe mang tên Kiều Quốc C, sinh năm 1965, trú tại P79B1 tập thể V, phường V, quận Đ, Hà Nội. Xe máy là tài sản chung của vợ chồng, sử dụng trong gia đình phục vụ việc đi lại và số tiền 700.000 đồng thu giữ của H khi bắt quả tang. Kết quả điều tra xác định chiếc xe máy là tài sản chung hợp pháp của của gia đình chị Kiều Thị N, sinh năm 1975, trú tại Thôn 3, Ph, huyện P (vợ của H). Chị N hoàn toàn không biết việc H lấy xe máy đi bán ma tuý. Số tiền 700.000 đồng là tài sản hợp pháp của H, quá trình điều tra H có ý kiến đề nghị xin lại và uỷ quyền cho vợ là chị N nhận. Ngày 01/11/2021, CQĐT Công an huyện Phúc Thọ ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy và số tiền 700.000 đồng cho chị Kiều Thị N.
Đối với 01 gói ma túy đã được niêm phong (do phòng PC 09 –CATPHN bàn giao sau khi giám định); 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ; 01 điện thoại di động có chữ Realme đã cũ; số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng);
Số vật chứng này chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ bảo quản để giải quyết theo quy định.
Tại bản Cáo trạng số 92/CT-VKS ngày 22/11/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ đã truy tố Cấn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Cấn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cấn Văn H từ 04 đến 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/9/2021 Do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không đề cập hình phạt bổ sung.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng là:
Một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Cấn Văn H và đồng chí Phùng Bình Dương, cán bộ công an huyện Phúc Thọ;
Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với: Một điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, Một điện thoại nhãn hiệu Realme màu đen, đã qua sử dụng và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), trả lại Phí Văn K số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Đề nghị áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do vậy có đủ cơ sở để khẳng định:
[1] Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 01/9/2021, Cấn Văn H có hành vi bán trái phép 0,183 gam ma túy loại Heroin cho Phí Văn K, bị lực lượng Công an huyện Phúc Thọ bắt quả tang tại Thôn 2, xã Ph, huyện P.
Hành vi nêu trên của Cấn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Do vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước, gieo rắc cái chết trắng trong cộng đồng, làm mất trật tự trị an ở địa phương, bản thân bị cáo đã nhiều lần bị kết án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và các tội danh khác nhưng không chịu rèn luyện tu dưỡng mà vẫn cố tình phạm tội, điều này thể hiện ý thức rất coi thường pháp luật nên cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc để răn đe bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Tuy tại bản án số 28/2012/HSST ngày 20/6/2012, Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ đã xác định Cấn Văn H tái phạm và lần này, H chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý, lẽ ra lần phạm tội này của H phải thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nhưng căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội thì áp dụng theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo: Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về người bị kết án đương nhiên được xóa án tích (02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm). Vì vậy, hành vi phạm tội tại bản án số 08/2008/HSST của Cấn Văn H đương nhiên được xóa án tích. Do đó, hành vi phạm tội lần này của H chỉ bị tính là tái phạm. Vì vậy, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với Phí Văn K là người đến mua ma túy của Cấn Văn H nhằm mục đích sử dụng cá nhân nhưng chưa nhận được ma túy, thì bị phát hiện bắt quả tang, nên hành vi của Phí Văn K chưa đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cơ quan điều tra không đề cập xử lý gì mà chỉ nhắc nhở, giáo dục phòng ngừa chung.
[3] Về vật chứng: Đối với một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Cấn Văn H và đồng chí Phùng Bình Dương, cán bộ công an huyện Phúc Thọ cần tịch thu tiêu hủy;
Đối với Một điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, Một điện thoại nhãn hiệu Realme màu đen, đã qua sử dụng là phương tiện các đối tượng liên lạc để mua bán ma túy cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) thu giữ của Phí Văn K, xét thấy cả H và K đều xác định số tiền mua bán là 300.000đ. Do vậy, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ, còn 200.000đ không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Phí Văn K.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 30F9-1088, đăng ký xe mang tên Kiều Quốc C, sinh năm 1965, trú tại P79B1 tập thể V, phường V, quận Đ, Hà Nội. Anh C đã bán xe cho một người không quen biết. Chị Nh mua xe này của một người không quen biết. Kết quả điều tra xác định chiếc xe máy không nằm trong dữ liệu vật chứng, là tài sản chung hợp pháp của của gia đình chị Kiều Thị N, sinh năm 1975, trú tại Thôn 3, xã Ph, huyện P (vợ của H). Chị N hoàn toàn không biết việc H lấy xe máy đi bán ma tuý. Đối với số tiền 700.000 đồng thu giữ của H, xác định là tài sản hợp pháp của H, quá trình điều tra H có ý kiến đề nghị xin lại và uỷ quyền cho vợ là chị N nhận. Ngày 01/11/2021, CQĐT Công an huyện Phúc Thọ ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe máy và số tiền 700.000 đồng cho chị Kiều Thị N. Chị N không có ý kiến gì khác nên HĐXX không phải xem xét.
[4] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều đảm bảo đúng pháp luật.
[5] Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cấn Văn H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/9/2021.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 một phong bì niêm phong của phòng PC09- Công an TP Hà Nội bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Cấn Văn H và đồng chí Phùng Bình Dương, cán bộ công an huyện Phúc Thọ.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với Một điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, Một điện thoại nhãn hiệu Realme màu đen, đã qua sử dụng và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Trả lại ông Phí Văn K số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Các vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2021. Số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) đang được lưu giữ tại Ngân hàng Nông nghiệp huyện Phúc Thọ theo giấy nộp tiền ngày 23/11/2021.
Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 101/2021/HS-ST
Số hiệu: | 101/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về