Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG CHÀ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUY

Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở TAND huyện MC, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện MC số: 04/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Lò Văn P (tên gọi khác: không), sinh năm 1964, tại huyện MC, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Tổ dân phố X, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 3/10; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn U (đã chết) và bà Lò Thị H (đã chết); Vợ: Lò Thị Ph (đã chết), bị cáo có 3 người con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án: 01 tiền án, năm 2020 bị Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên xử phạt 2 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại Bản án số 03/2020/HSST ngày 27/2/2020; Tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/8/2023, tạm giam ngày 03/9/2023. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lò Thị Á, sinh năm 1965;

Trú tại: Tổ dân phố Y, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Điện Biên. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn P: Bà Mai Thị Thanh L, sinh năm 1990, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Điện Biên.

Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có ma túy sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời, khoảng 11 giờ ngày 25/8/2023, Lò Văn P đi bộ đến nhà Lò Thị Á trú tại tổ dân phố 2, thị trấn MC, huyện MC để hỏi mua ma túy. Qua trao đổi P mua được của Á 01 gói Heroine với giá 800.000 đồng, P trả trước 500.000 đồng còn nợ 300.000 đồng hẹn khi nào có sẽ trả. P cầm số Heroine mua được về nhà ngồi ở khu vực bếp dùng dao lam chia nhỏ. Khi P đang chia Heroine thì có một người đàn ông không rõ lai lịch đến nhà, qua trao đổi P đã bán cho người này 02 gói Heroine với giá 150.000 đồng. Sau khi người đàn ông đi về thì P tiếp tục chia số Heroine còn lại thành 03 gói trong đó 02 gói mỗi gói được gói bằng mảnh giấy bạc màu vàng trắng, 01 gói được gói bằng mảnh nilon màu trắng và 01 cục. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi P đang ở nhà thuộc tổ dân phố 1, thị trấn MC, huyện MC thì bị tổ công tác Công an huyện MC kiểm tra, phát hiện và thu giữ toàn bộ 03 gói Heroine và 01 cục Heroine của P có tống khối lượng 2,283 gam. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn P và niêm phong vật chứng theo quy định.

Kết luận giám định số 1332/KL-KTHS ngày 01/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn P là 2,283 gam. Mẫu chất bột màu trắng đục thu giữ của Lò Văn P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Kết luận giám định số 1361/KL-KTHS ngày 03/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 02 tờ tiền có mệnh giá 50.000 đồng, 02 tờ tiền có mệnh giá 20.000 đồng và 01 tờ tiền có mệnh giá 10.000 đồng gửi giám định là tiền thật.

Cáo trạng số: 48/CT-VKSMC ngày 24/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS xử phạt bị cáo từ 3 năm 9 tháng tù đến 4 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án áp dụng khoản 1 Điều 47/BLHS; khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 2,15 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 mảnh nilon màu trắng, 02 mảnh giấy bạc màu vàng trắng, 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 chiếc dao lam là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, công cụ phạm tội và vật không có giá trị sử dụng.Tịch thu nộp ngân sách số tiền 150.000 đồng do phạm tội mà có.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trang đã quy kết. Lời nói sau cùng bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt, miễn án phí và không áp dụng hình phạt bổ sung.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Lò Thị Á có mặt giữ nguyên lời khai như đã khai nhận tại cơ quan điều tra. Lò Thị Á không thừa nhận việc đã bán ma túy cho Lò Văn P.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện MC đã truy tố và kết luận. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng tình tiết: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân giúp cơ quan tố tụng nhanh chóng kết thúc vụ án. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, có bố vợ được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS để xử phạt bị cáo ở mức án thấp nhất do Kiểm sát viên đề nghị. Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí đối với bị cáo. Trả bị cáo số tiền 150.000 đồng do không đủ cơ sở để chứng minh đây là số tiền do phạm tội mà có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. HĐXX thấy rằng lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng, lời khai của những người liên quan và kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 25/8/2023, tại nhà ở của Lò Văn P thuộc khu vực tổ dân phố 1, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Điện Biên, tổ công tác Công an huyện MC phát hiện, bắt quả tang Lò Văn P có hành vi cất giấu trái phép 2,283 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân và bán trái phép kiếm lời.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện MC truy tố, luận tội và đề nghị xử phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét về tính chất của vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận đều biết việc Nhà nước cấm tất cả các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy, biết tác hại của ma túy đối với sức khỏe và kinh tế của người sử dụng, nhưng do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, để có ma túy sử dụng và bán kiếm lời bị cáo đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện MC, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình gây ra.

Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại bản án số 40/2013/HSST ngày 14/6/2023, ngày 28/4/2015 chấp hành xong, đã được xóa án tích.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn P đã bị kết án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý là tái phạm, do vậy cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy rằng tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân, có bố vợ được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, bị cáo có công chăm sóc người có công và thân nhân của người có công trong kháng chiến chống mỹ cứu nước. Bởi vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS, để xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng, giảm nhẹ của pháp luật đối với người phạm tội. Ý kiến đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nêu trên và để nghị xử phạt bị cáo ở mức án khởi điểm mà Viện kiểm sát đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS, người phạm tội còn có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án như biên bản xác minh thu nhập, tài sản và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo có nghề nghiệp là làm nông nghiệp, hoàn cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện MC, tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân nhân huyện MC; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng với quy định của pháp luật.

[4]. Về vật chứng Hội đồng xét xử thấy rằng:

01 phong bì niêm phong vật chứng của cơ quan CSĐT huyện MC mặt trước có dán mảnh giấy ghi vật chứng còn lại của Lò Văn P, bên trong có 01 mảnh nilon màu trắng; 02 mảnh giấy bạc màu vàng trắng, 01 chiếc dao lam, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên bên trong có chứa 2,15 gam Heroine còn lại sau giám định. Những vật chứng trên là vật cấm tàng trữ, lưu hành, công cụ phạm tội, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đối với 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên bên trong 150.000 đồng người bào chữa đề nghị trả lại cho bị cáo do không đủ cơ sở để khắng định là tiền do phạm tội mà có. HĐXX xét thấy khi bị thu giữ, niêm phong số tiền bị cáo đều được chứng kiến, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều khẳng định là bán cho người đàn ông không biết tên 2 gói Heroine với giá 150.000 đồng, như vậy lời khai của bị cáo phù hợp với hành vi và số tiền bị thu giữ. Do đó có đủ căn cứ khẳng định số tiền trên là tiền do bị cáo phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định điểm b khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm b khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[5]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Theo lời khai của bị cáo, nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do Lò Văn P mua của Lò Thị Á. Qua đấu tranh Lò Thị Á không thừa nhận, ngoài lời khai của Lò Văn P không có tài liệu chứng cứ khác để chứng minh hành vi của Lò Thị Á nên không có căn cứ để xử lý đối với Ánh.

Đối với người đàn ông mà bị cáo Lò Văn P đã bán Heroine, do bị cáo không biết họ tên, địa chỉ của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo 3 (ba) năm 9 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong vật chứng của cơ quan CSĐT huyện MC mặt trước có dán mảnh giấy ghi vật chứng còn lại của Lò Văn P, bên trong có 01 mảnh nilon màu trắng; 02 mảnh giấy bạc màu vàng trắng, 01 chiếc dao lam, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên bên trong có chứa 2,15 gam Heroine.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Số tiền 150.000 đồng đã được niêm phong, theo kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên là tiền thật.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện MC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện MC, tỉnh Điện Biên ngày 25/10/2023).

3. Về án phí:

Căn cứ vào Điều 135, khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lò Văn P

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/11/2023).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo những vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;