Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2022/HSST ngày 06 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022 /QĐST - HS ngày 11/01/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Văn L, sinh năm 1966.Nơi cư trú: thôn 5, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; Trình độ văn hóa: Lớp 3/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 5; vợ: chị Bùi Thị L, sinh năm 1968; có 01 con sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 114 ngày 23/6/2006 của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Văn L về hành vi đánh bạc; Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 94 ngày 24/02/2009 của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Văn L về hành vi đánh bạc; Quyết định khởi tố vụ án số 67 ngày 03/8/2015 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư về tội Cố ý gây thương tích; Quyết định khởi tố bị can số 140 ngày 03/8/2015 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư đối với Đỗ Văn L về tội “Cố ý gây thương tích”;

Quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 06 ngày 24/8/2015; Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 07 ngày 24/8/2015 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư đối với Đỗ Văn L; Bản án hình sự phúc thẩm số 83/2016/HSPT ngày 26/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt Đỗ Văn L 19 tháng tù về tội Đánh bạc và Gá bạc và hình phạt bổ sung là 4.000.000 đồng. L đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/7/2018 và chấp hành xong án phí, hình phạt bổ sung vào ngày 17/10/2016 (đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/10/2021 đến ngày 14/10/2021 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Kiến Xương. (Có mặt) * Người có quyền lợi liên quan:

- Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1999. (vắng mặt) Trú tại: thôn T, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình.

* Người làm chứng:

- Anh Phạm Văn T, sinh năm 1994. (vắng mặt) Trú tại: thôn Ngái Đ, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1973. (vắng mặt) - Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982. (vắng mặt) Đều trú tại: thôn 5, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 11/10/2021, tại khu vực trạm bơm Lịch Bài thuộc thôn 5, xã Vũ Hòa, huyện Kiến Xương, Công an huyện Kiến Xương bắt quả tang Đỗ Văn L, sinh năm 1966 trú tại thôn 5, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phạm Ngọc Tr, sinh năm 1999 trú tại thôn T, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình. Thu tại túi quần đang mặc phía trước, bên trái của Trung 01 túi nilon trong suốt kích thước (1,5x2)cm miệng túi có nẹp cài bằng nhựa, viền màu xanh, bên trong chứa dạng tinh thể trong suốt và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen kèm theo sim có số thuê bao 0827102X. T khai chất tinh thể trong túi là ma túy đá vừa mua của L với giá 500.000 đồng, còn điện thoại di động T dùng để giao dịch mua bán ma túy với L. Kiểm tra thu tại túi quần đang mặc phía trước, bên trái của L số tiền 500.000 đồng, L khai là tiền vừa bán ma túy cho T.

Cơ quan Công an huyện Kiến Xương khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đỗ Văn L. Thu tại gầm bàn 01 cân điện tử màu đen đã cũ; thu tại bàn thờ 01 túi nilon trong suốt kích thước (1,5x2)cm, miệng túi có nẹp cài viền màu xanh, bên trong chứa dạng tinh thể trong suốt; thu giữ tại giường ngủ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei, màu đen kèm theo số thuê bao 0915015Y. L khai nhận chất tinh thể trong túi nilon thu tại chỗ ở của mình là ma túy, mục đích để bán kiếm lời, cân điện tử dùng để chia ma túy, điện thoại di động kèm theo sim dùng để giao dịch mua bán ma túy.

Kết luận giám định số 403/KLGĐMT- PC09 ngày 12/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định thu giữ của Phạm Ngọc Trung là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,0332 gam; Mẫu vật gửi giám định thu giữ của Đỗ Văn L là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,1371 gam; Kết luận giám định số 103/KLGĐTL-PC09 ngày 19/10/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: 03 tờ tiền gửi giám định là tiền thật Cáo trạng số 05/CT-VKSKX ngày 05/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Đỗ Văn L về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị Đỗ Văn L về tội danh và điều luật như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Áp dụng khoản 1, 5 điều 251; điểm s, khoản 1, điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn L 02 năm 03 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2021.

Phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo từ 3.000.0000 đến 5.000.000 đồng sung ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 403/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật gửi giám định vật chứng thu giữ của phạm Ngọc T, sinh năm 1999, HKTT tại thôn T, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình”; 01 phong bì niêm phong số 403/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật gửi giám định vật chứng thu giữ tại chỗ ở của Đỗ Văn L, sinh năm 1966, HKTT: thôn 5, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình”; 01 sim điện thoại di động trên sim có các ký tự: 4G Vinaphone 89840200011144639Z; 01 sim điện thoại di động không rõ các ký tự trên sim. Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng nhãn hiệu Huawei, số imel: 869410035790253; 869410035801266; 01 điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng nhãn hiệu Nokia, số imel: 357761109378519; 357761109878518; 01 cân điện tử mà đen đã cũ; số tiền 500.000 đồng tiền bán ma túy thu của Đỗ Văn L được niêm phong gửi tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Bị cáo nghe các đối tượng nghiện ma túy nói khu vực cầu Cống Trắng, thành phố Thái Bình có người đàn ông khoảng 30 tuổi bán ma túy đá nên nảy sinh ý định mua về để bán kiếm lời. Bị cáo cho số điện thoại 0915015Y, cho một số người nghiện ma túy đá để khi cần mua ma túy bị cáo sẽ bán cho. Sáng ngày 11/10/2021, bị cáo một mình lên cầu Cống Trắng để tìm mua ma túy. Đến nơi bị cáo gặp và mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi, không rõ tên, địa chỉ 800.000 đồng được một túi ma túy đá, đồng thời bị cáo cũng xin người đó được 02 túi nilon nhỏ dùng chia ma túy. Sau khi mua được ma túy, bị cáo đi về nhà và chia túi ma túy làm hai phần để trên ban thờ và dự kiến sẽ bán mỗi túi 500.000 đồng. Khoảng 16 giờ ngày 11/10/2021, có người đàn ông gọi điện thoại di động từ số 0827102X vào số 0915015Y của bị cáo và nói “Cậu để cho con túi năm khi nào con đi làm về con lấy”. bị cáo hiểu ý người này muốn hỏi mua một túi ma túy đá với giá 500.000 đồng nên đồng ý trả lời “Ừ, ừ” và hẹn người đó ra khu vực trạm bơm Lịch Bài thuộc thôn 5, xã Vũ Hòa, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đến khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày người đàn ông có số điện thoại 0827102X gọi đến cho bị cáo và nói “cháu đến nơi rồi”. bị cáo bảo: “Chờ tý” rồi tắt điện thoại để trên giường. Bị cáo lấy một túi ma túy đá cầm ở tay rồi đi bộ ra khu vực trạm bơm Lịch Bài. Khi gần đến trạm bơm thì bị cáo giấu túi ma túy ở dưới một viên gạch rồi đi gặp người hỏi mua ma túy như đã hẹn. Đi ra sau trạm bơm bị cáo thấy có 02 thanh niên, bị cáo hỏi: “Mày hẹn tao à, tiền đâu”. Một người thanh niên đi lại và trả lời: “Vâng” rồi đưa cho L 500.000 đồng gồm 02 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền polyme mệnh giá 100.000 đồng. Bị cáo nhận tiền và cho vào túi quần đang mặc phía trước bên trái thì bị Công an huyện Kiến Xương bắt quả tang. Lúc này bị cáo mới biết người mua ma túy là Phạm Ngọc T, sinh năm 1999 trú tại xã B, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình và người đi cùng là Phạm Văn T, sinh năm 1994 trú tại xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình lập hồi 18 giờ 05 phút ngày 11/10/2021 tại khu vực trạm bơm Lịch Bài thuộc thôn 5, xã Vũ Hòa, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương lập hồi 19 giờ 20 phút;19 giờ 40 phút cùng ngày 11/10/2021 tại khu vực trạm bơm Lịch Bài thuộc thôn 5, xã Vũ Hòa, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Biên bản khám xét do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương lập hồi 20 giờ 05 phút ngày 11/10/2021 tại chỗ ở của Đỗ Văn L, sinh năm 1966 thôn 5, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình. Kết luận giám định số 403/KLGĐMT- PC09 ngày 12/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Kết luận giám định số 103/KLGĐTL-PC09 ngày 19/10/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Phạm Ngọc T, sinh năm 1999 trú tại thôn T, xã B, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng là Phạm Văn T, sinh năm 1994 trú tại thôn N, xã Q, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1973 trú tại thôn 5, xã V, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982 trú tại thôn 5, xã V, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Bị cáo có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0332 gam cho Phạm Ngọc T lấy 500.000 đồng. Từ căn cứ nêu trên hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm vào tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1, điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất gây nghiện. Ma túy không những làm sa sút sức khỏe, trí tuệ con người mà còn hủy hoại đạo đức nhân cách con người, là nguồn gốc phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Bị cáo bán trái phép chất ma túy cho người khác để hưởng lợi. bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử phạt hành chính và bị kết án đã được xóa án tích, vì vậy phải xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo và có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Ngoài hình phạt tù trong điều luật còn quy định: Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, bị cáo bán ma túy mục đích hưởng lợi cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ số ma túy sau giám định niêm 01 phong bì niêm phong số 403/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật gửi giám định vật chứng thu giữ của phạm Ngọc T, sinh năm 1999, HKTT tại thôn T, xã B, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”; 01 phong bì niêm phong số 403/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật gửi giám định vật chứng thu giữ tại chỗ ở của Đỗ Văn L, sinh năm 1966, HKTT: thôn 5, xã Vũ H, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình” nay cần tịch thu tiêu hủy; 01 sim điện thoại di động trên sim có các ký tự: 4G Vinaphone 89840200011144639Z; 01 sim điện thoại di động không rõ các ký tự trên sim dùng để giao dịch mua bán mua túy, nay không còn giá trị nay cần tiêu hủy. Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng nhãn hiệu Huawei, số imel: 869410035790253; 869410035801266; 01 điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng nhãn hiệu Nokia, số imel: 357761109378519; 357761109878518; 01 cân điện tử mà đen đã cũ dùng để giao dịch mua bán mua túy, nay cần tịch thu sung quỹ nhà nước; số tiền 500.000 đồng tiền bán ma túy thu của Đỗ Văn L được niêm phong gửi tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương dùng để giao dịch mua bán mua túy, nay cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[8] Đối với Phạm Ngọc T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,0332 gam để sử dụng cho bản thân. T chưa có tiền án, tiền sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, các tội theo quy định tại Điều 248, 250, 251 và 252 Bộ luật hình sự, khối lượng ma túy dưới 0,1 gam. Do đó không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phạm Ngọc T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an huyện Kiến Xương đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Phạm Ngọc T.

[9] Về nguồn gốc số Methamphetamine: Đỗ Văn L khai mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ ở khu vực cầu Cống Trắng, thành phố Thái Bình. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương không xác định được người đàn ông trên nên không có căn cứ để xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc Hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn L 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 11/10/2021.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Đỗ Văn L 5.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm: 0,0120 gam ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 403/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật gửi giám định vật chứng thu giữ của Phạm Ngọc T, sinh năm 1999, HKTT tại thôn T, xã B, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”; 0,0925 gam ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 403/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật gửi giám định vật chứng thu giữ tại chỗ ở của Đỗ Văn L, sinh năm 1966, HKTT: thôn 5, xã V, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”; 01 sim điện thoại di động trên sim có các ký tự: 4G Vinaphone 89840200011144639Z; 01 sim điện thoại di động không rõ các ký tự trên sim.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng nhãn hiệu Huawei, số imel: 869410035790253; 869410035801266; 01 điện thoại di động màu đen đã qua sử dụng nhãn hiệu Nokia, số imel: 357761109378519; 357761109878518; 500.000 đồng tiền bán ma túy thu của Đỗ Văn L được niêm phong trong phong bì niêm phong số 103/KLGĐTL-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình mặt trước ghi “Hoàn trả mẫu vật giám định vật chứng thu giữ của Đỗ Văn L, sinh năm 1966, HKTT: thôn 5, xã V, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”; 01 cân điện tử mà đen đã cũ.

(Vật chứng trên được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình quản lý).

4. Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đỗ Văn L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Ngọc Trung vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoăc bản án được niêm yết/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;