Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH C

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2022/HSST-QĐ ngày 19/01/2022 đối với bị cáo:

Dương Đức Q; Tên gọi khác: không có; sinh ngày 09/4/1985 tại thị trấn T, huyện N (nay là huyện H), tỉnh C; Nơi cư trú: tổ dân phố 3, thị trấn T, huyện H, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn L (đã chết) và bà Hứa Thị V, sinh năm 1963; Vợ, Con: Chưa có; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền sự: không có.

Tiền án: 03, Ngày 25/6/2009 bị Tòa án nhân dân quận B, thành phố N xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 31/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện N (nay là huyện H), tỉnh C xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 10/12/2014 bị Tòa án nhân dân huyện N (nay là huyện H), tỉnh C xử phạt 9 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Nhân thân: Ngày 22/6/2006 bị Công an huyện N (nay là huyện H), tỉnh C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/9/2021 đến ngày 10/9/2021, tạm giam từ ngày 10/9/2021 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện H, có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Dương Bích T, sinh năm 1989. Địa chỉ: Số 26, tổ 2, phường S, thành phố C. (có mặt)

- Hứa Thị V, sinh năm 1963. Địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. (có mặt)

Người làm chứng:

- Nông Thế T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. (vắng mặt)

- Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1986. Địa chỉ: Xóm Đ, xã S, huyện H, tỉnh C.(vắng mặt)

- Nguyễn Văn K, sinh năm 1969. Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. (vắng mặt)

- Mạc Hải N, sinh năm 1989. Địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 07/9/2021 Công an huyện H bắt quả tang Dương Đức Q, sinh năm 1985, trú tại: Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, qua kiểm tra thu giữ: 01 gói nhỏ gói bằng túi nilon màu trắng bên trong chứa nhiều cục, vụn, bột màu trắng; 01 xe moto (xe máy) nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, BKS 11H1-180.54 kèm chìa khóa xe và giấy đăng ký xe mang tên Dương Bích T; 01 điện thoại di động Samsung nắp sau màu hồng đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam 1.350.000đ. Cùng ngày Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp chỗ ở của Dương Đức Q nhưng không phát hiện và thu giữ đồ vật gì liên quan.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Dương Đức Q khai nhận: Q sử dụng ma túy từ năm 2002, Q thường xuống thành phố C mua ma túy với những người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ, mỗi lần mua từ 200.000 đồng đến 1.000.000 đồng để sử dụng. Từ tháng 7 năm 2021 Q đã nhiều lần đi xe máy Honda Wave màu đen bạc, BKS 11H1-180.54 đến thành phố C mua heroin với Hoàng Minh V, sinh năm 1972, trú tại: xóm Đ, xã H, thành phố C, tỉnh C. Trước khi đi Q gọi cho Đ bằng điện thoại di động Samsung nắp sau màu hồng, Q mua với V lần ít nhất là 6.000.000 đồng, lần mua nhiều nhất là 16.000.000 đồng, cũng là lần bị Công an bắt quả tang.

Số heroin mua với V, Q mang về chia nhỏ thành nhiều tép, một phần để bản thân sử dụng, một phần bán lại cho các con nghiện kiếm lời để xoay vòng mua heroin tiếp. Từ tháng 7 năm 2021 Q được bán cho những người sau:

- Nông Thế T, sinh năm 1981, trú tại: Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. Quyết bán cho Trọng nhiều lần, nhưng chỉ nhớ hai lần gần đây nhất là ngày 06/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng và ngày 05/9/2021 bán 01 tép 100.000 đồng, địa điểm tại khu vực ngõ vào nhà nghỉ L, Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C.

- Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1986, trú tại: Xóm Đ, xã S, huyện H, tỉnh C. Quyết được bán cho Đ nhiều lần, chỉ nhớ ba lần gần đây nhất là: ngày 07/9/2021 bán 03 tép giá 300.000 đồng ở khu vực đường vắng thuộc xóm N, xã S, huyện H; ngày 06/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng; ngày 05/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng địa điểm đều tại đường ngõ đi vào nhà nghỉ L, Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C.

- Nguyễn Văn K, sinh năm 1969, trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. Q bán cho K nhiều lần, chỉ nhớ hai lần gần đây nhất là: ngày 06/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng tại đường ngõ đi vào nhà nghỉ L, Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C; ngày 05/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng tại khu vực gần miếu thổ công thuộc Tổ dân phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh C.

- Mạc Hải N, sinh năm 1989, trú tại: Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C. Q bán cho N nhiều lần, chỉ nhớ hai lần gần đây nhất là: ngày 06/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng và ngày 05/9/2021 bán 02 tép giá 200.000 đồng đều tại đường ngõ đi vào nhà nghỉ L, Tổ dân phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh C.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng vụ án ngày 07/9/2021 cân xác định trọng lượng của số chất bột màu trắng thu giữ của Dương Đức Q là 17,68 gam (Mười bảy phẩy sáu mươi tám gam).

Tại bản kết luận giám định số 327/GĐMT ngày 17/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận “Chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroin”. Bị cáo nhất trí với biên bản xác định khối lượng vật chứng và kết luận giám định.

Bản Cáo trạng số 43/CT-VKSHQ ngày 24/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Dương Đức Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Đề nghị HĐXX: tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Đức Q từ 11 (Mười một) đến 13 (Mười ba) năm tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 46, 47 BLHS;

Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy đối với 01 phong bì thư niêm phong, mặt trước ghi “Vật chứng thu giữ của Dương Đức Q, bắt ngày 07/9/2021”. Mặt sau phong bì có chữ ký của Dương Đức Q cùng thành phần tham gia niêm phong và 04 hình dấu đỏ giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh C; Trả lại cho chị Dương Bích T 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung, nắp sau màu hồng, có số IMEI 1: 355228084748241/01, số IEMI 2: 35522908448249/01 đã qua sử dụng; Trả lại cho bà Hứa Thị V 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đen bạc, Biển kiểm soát 11H1 – 180.54 (kèm chìa khóa xe và giấy đăng ký xe mang tên Dương Bích T), số khung: 3901HY526298, số máy: JA39E0501437 đã qua sử dụng; Đối với số tiền 1.350.000đ đề nghị trả lại cho bị cáo số tiền 350.000đ không liên quan đến việc mua bán ma túy; tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 1.000.000đ bị cáo bán ma túy có được; Truy thu sung công quỹ nhà nước 800.000đ bị cáo có được từ việc bán ma túy.

Về án phí, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 135, 136 BLTTHS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến tranh luận với bản luận tội đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã biết hành vi của mình là sai, do hoàn cảnh gia đình neo người, em gái lấy chồng xa, mẹ già không ai chăm sóc mẹ mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về với gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên Công an huyện H; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng.

Đối với những người làm chứng Nông Thế T, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn K, Mạc Hải N được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, tại Cơ quan điều tra đã có lời khai đầy đủ về các nội dung liên quan đến vụ án nên HĐXX xử vắng mặt những người làm chứng theo điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt: Căn cứ lời khai của bị cáo, những người làm chứng; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 07/9/2021; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng vụ án; bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ được thu thập và đánh giá, có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 7 năm 2021 Dương Đức Q đã nhiều lần đi xe máy Honda Wave BKS 11H1 – 180.54 ra thành phố C mua ma túy về chia thành các tép nhỏ để bản thân sử dụng và bán lại kiếm lời. Q được bán cho các đối tượng nghiện Nông Thế T, Mạc Hải N, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn K mỗi lần từ 01 đến 03 tép mỗi tép 100.000 đồng. Xác định được số tiền bị cáo thu lợi bất chính từ bán ma túy là 1.800.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại các điểm b, i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do vậy, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo ra trước Tòa án là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo có nhân thân xấu, nghiện ma túy, có 03 tiền án và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, được thực hiện với lỗi cố ý gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về qun lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án kết án về các hành vi phạm tội chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục cố ý thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, là tái phạm nguy hiểm phải xử lý nghiêm khắc nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Năm 2003 bố đẻ của bị cáo là ông Dương Văn L được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương chiến công hạng ba theo Quyết định số 167/QĐ-CTN ngày 08/4/2003 nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 phong bì thư niêm phong, mặt trước ghi “Vật chứng thu giữ của Dương Đức Q, bắt ngày 07/9/2021”. Mặt sau phong bì có chữ ký của Dương Đức Q cùng thành phần tham gia niêm phong và 04 hình dấu đỏ giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh C là chất ma túy cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung, nắp sau màu hồng, có số IMEI 1: 355228084748241/01, số IEMI 2: 35522908448249/01 đã qua sử dụng là của chị Dương Bích T cho bị cáo mượn để sử dụng, bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy chị T không biết nên cần trả lại cho chị T;

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đen bạc, Biển kiểm soát 11H1 – 180.54 (kèm chìa khóa xe và giấy đăng ký xe mang tên Dương Bích T), số khung: 3901HY526298, số máy: JA39E0501437 đã qua sử dụng là xe máy của chị Dương Bích T mua cho mẹ đẻ là bà Hứa Thị V làm phương tiện đi lại. Sau khi ra tù, bị cáo Q về sinh sống cùng với bà V đã tự ý sử dụng chiếc xe để đi mua bán ma túy, bà V và chị T không biết. Tại phiên tòa chị T có ý kiến đề nghị HĐXX trả lại chiếc xe cho bà V nên cần trả lại cho bà V;

- Đối với số tiền 1.350.000 đồng thu giữ của bị cáo. Kết quả điều tra và tại phiên tòa xác định trong đó 1.000.000 đồng bị cáo thu lợi bất chính từ bán ma túy cần tịch thu sung công quỹ nhà nước; 350.000 đồng bị cáo bán cháo có được trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Do bị cáo thu lợi bất chính từ việc bán ma túy 1.800.000đ nên cần truy thu thêm số tiền 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) bị cáo thu lợi bất chính sung công quỹ nhà nước .

[8] Các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn K, Mạc Hải N, Nông Thế T được mua heroin với bị cáo mục đích chỉ để sử dụng, Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với các đối tượng trên là đúng quy định pháp luật.

Đối với những người đàn ông Q khai được mua ma túy do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở xác minh làm rõ trong vụ án.

Đối với Hoàng Minh V, bị cáo khai được mua ma túy với V nhiều lần, từ lời khai của bị cáo Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra mở rộng, khám xét khẩn cấp chỗ ở, lấy lời khai, hỏi cung, đối chất, kiểm tra phương tiện liên lạc của V, những đối tượng có liên quan… Tuy nhiên ngoài lời khai của bị cáo Q không thu thập được tài liệu chứng cứ khác chứng minh hành vi phạm tội của Hoàng Minh V, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra và xử lý trong vụ án khác khi có đủ căn cứ.

Ngày 08/9/2021 kết quả test nhanh ma túy trong nước tiểu của Hoàng Minh V dương tính với chất ma túy methamphetamine (ma túy đá), Cơ quan điều tra xử phạt vi phạm hành chính đối với V về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Đức Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b, i, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Đức Q 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/9/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong, mặt trước ghi “Vật chứng thu giữ của Dương Đức Q, bắt ngày 07/9/2021”. Mặt sau phong bì có chữ ký của Dương Đức Q cùng thành phần tham gia niêm phong và 04 hình dấu đỏ giáp lai của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh C;

- Trả lại cho chị Dương Bích T 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung, nắp sau màu hồng, có số IMEI 1: 355228084748241/01, số IEMI 2:

355229084748249/01 đã qua sử dụng;

- Trả lại cho bà Hứa Thị V 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen bạc, Biển kiểm soát 11H1 – 180.54 (kèm chìa khóa xe và giấy đăng ký xe mang tên Dương Bích T), số khung: 3901HY526298, số máy: JA39E0501437 đã qua sử dụng;

- Đối với số tiền 1.350.000 đồng:

+ Trả lại cho bị cáo 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước 1.000.000đ (Một triệu đồng) bị cáo thu lợi bất chính.

(Xác nhận toàn bộ vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 08 ngày 25/11/2021).

4. Truy thu sung công quỹ nhà nước số tiền 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) bị cáo thu lợi bất chính.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Dương Bích T, Hứa Thị V có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;