Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 236/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với các bị cáo:

1/ TRẦN ĐỨC M - Sinh năm: 1999. Giới tính: Nam. Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: thôn N, xã Y, huyện H, tỉnh Đ. Địa chỉ hiện nay: số 20 ngõ 1 V, phường Đ, quận C, Thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Con ông: Trần Văn L; con bà: Nguyễn Thị H; Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 215 ngày 20/5/2022 của Công an quận C; Bắt tạm giam ngày: 13/05/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại giam số 01 Công an thành phố H; Số giam: 2513B2/B8. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ NGUYỄN HỮU C- Sinh năm: 1999. Giới tính: Nam. Đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Thôn T, xã K, huyện H, tỉnh Đ. Hiện trú tại: số 11 ngách 45 ngõ 273 C, phường N, quận L, Thành phố H; Nghề nghiệp: Sinh viên năm thứ 5 Đại học Đ; Trình độ văn hoá: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Con ông: Nguyễn Hữu B; con bà: Nguyễn Thị T; Tiền án, tiền sự: Không. Danh chỉ bản số 216 ngày 20/5/2022 của Công an quận C; Bắt tạm giữ ngày: 13/05/2022. Thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 20/5/2022. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Lê T A, sinh năm: 1996, Địa chỉ:

phường M, quận T, Thành phố H (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 15 giờ 32 phút ngày 12/05/2022, tổ công tác Công an phường D làm nhiệm vụ tại khu vực trước nhà N06 khu 5,3ha phường D, C, H phát hiện bắt quả tang Trần Đức M, Nguyễn Hữu C và Lê A T đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra phát hiện thu giữ trong tay phải của M 01 túi nilon chứa thảo mộc khô và trong túi quần trước bên trái M đang mặc 03 túi nilon chứa thảo mộc khô. Tại chỗ M khai nhận số thảo mộc khô trên đều là cần sa của M mang đi bán cho khách. Cơ quan công an thu giữ của Trần Đức M 01 điện thoại Samsung Note10+ màu bạc, lắp sim số ; của Nguyễn Hữu C: 01 xe máy Wave anpha màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 37E1-585.xx, 01 điện thoại Samsung Note10+ màu bạc lắp sim số 0365886xxx; 01 điện thoại Gmobil màu đen lắp sim số 0877091xxx; Thu giữ của Lê A T: 470.000 đồng; 01 điện thoại Nokia 1202 màu xanh. Cơ quan công an đã lập biên bản niêm phong, thu giữ tang vật, phương tiện và đưa các đối tượng về trụ sở công an phường D để làm việc.

Ngoài ra, Trần Đức M tự nguyện giao nộp 32 túi nilong chứa cần sa M cất giấu tại địa chỉ số 20 ngõ 1 C, Nghĩa Đô, C, H mục đích để bán kiếm lời. Cơ quan công an thu giữ của Trần Đức M: 01 điện thoại Samsung Note 10, 01 cân điện tử, 01 máy hút chân không.

Kết luận giám định số 3154/KLGĐ-PC09 ngày 19/5/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận đối với 4 gói ma túy bắt quả tang là:

- Thảo mộc khô bên trong 01 túi nilong là Cần sa, khối lượng: 2,983 gam.

- Thảo mộc khô bên trong 03 túi nilong đều là Cần sa, tổng khối lượng: 5,954 gam.

Kết luận giám định số 3208/KLGĐ-PC09 ngày 20/5/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận đối với số ma túy thu giữ tại phòng trọ của M là:

- Thảo mộc khô bên trong 22 túi nilong đều là Cần sa, tổng khối lượng: 50,870 gam.

- Thảo mộc khô đã được xay vụn bên trong 10 túi nilong đều là Cần sa, tổng khối lượng: 48,889 gam.

Tại cơ quan công an, Trần Đức M khai: Khoảng đầu tháng 5/2022, do nảy sinh ý định mua cần sa về bán lại kiếm lời nên M lên mạng xã hội Telegram tìm và hỏi mua được của 01 tài khoản không quen biết (M không nhớ tên tài khoản) 7.000.000 đồng tiền ma túy cần sa. Sau khi đặt khoảng 01 ngày M nhận được 01 túi ma túy cần sa tại phòng trọ tại C. M sử dụng cân điện tử chia số cần sa này thành các túi nhỏ và cất giấu trên nóc tủ quần áo tại phòng trọ tầng 2 số 20 ngõ 1 V, Đ, C, H để bán cho khách. Sau đó M sử dụng tài khoản facebook "Nông dân chuyên cần" đăng bài rao bán cần sa. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 12/05/2022 tài khoản tên "T" nhắn tin cho M hỏi mua 400.000 đồng tiền cần sa và hẹn đến tòa N06 khu 5,3ha D - C để giao dịch. M đồng ý và bảo người này trả thêm 70.000 đồng tiền công, tổng là 470.000 đồng. Người mua đồng ý và cả hai trao đổi số điện thoại với nhau. Sau đó M gọi điện cho Nguyễn Hữu C nhờ C chở đi bán cần sa cho khách. C đồng ý và khi C đến phòng trọ của M, M lấy 04 túi cần sa trên tủ quần áo chia làm 5 túi và cất 01 túi vào tủ quần áo, sau đó cất 01 túi vào túi quần trước bên phải và 03 túi vào túi quần trước bên trái đang mặc rồi C xuống lấy xe chở M đi bán cần sa cho khách. Việc M mua ma túy C không được biết và M bán ma túy C không được hưởng lợi gì. Khi đi đến trước tòa N06 khu 5,3ha D, M xuống xe đi bộ vào trong đồng thời gọi điện từ số 0975662xxx của mình đến số 0566706xxx của khách mua. M lấy túi cần sa cất trong túi quần bên phải ra đứng chờ khách mua, khi đang chuẩn bị giao dịch thì bị cơ quan công an kiểm tra bắt giữ.

Lời khai của Nguyễn Hữu C phù hợp với Trần Đức M: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 12/05/2022, C đang đi đường thì M gọi điện qua facebook bảo C đến phòng trọ tại tầng 2 số 20 ngõ 1 C, Nghĩa Đô, C rồi cùng đi bán cần sa cho khách. C đồng ý và đi xe ôm đến phòng trọ. Khi C đến ngồi cách khoảng 1 mét, M lấy 04 túi nilon chứa cần sa trên tủ quần áo và ngồi chia 01 túi ma túy to làm 2 túi ma túy. Sau đó 01 túi cất lại vào tủ quần áo, 01 túi M cất vào túi quần bên phải, 03 túi M cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi bảo C lấy xe Honda wave mang BKS: 37E1-585xx chở M đi bán ma túy cho khách. Việc M mua ma túy số lượng bao nhiêu và cất ở đâu C hoàn toàn không biết. Khi đến trước tòa N06 khu 5,3ha D, M xuống xe một mình đi bộ vào trong để bán cần sa cho khách, C đứng đợi ở ngoài thì cơ quan công an yêu cầu kiểm tra và đưa C về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan công an, Lê A T khai: Do có nhu cầu sử dụng cần sa nên T sử dụng tài khoản facebook tên "T" lên mạng xã hội tìm mua. Sau đó T thấy tài khoản tên "Nông dân chuyên cần" đăng bài rao bán cần sa nên nhắn tin hỏi mua 400.000 đồng tiền ma túy cần sa và hẹn đến trước tòa N06 khu 5,3ha D, C để giao dịch. Người này đồng ý và yêu cầu trả thêm 70.000 đồng tiền công vận chuyển, tổng là 470.000 đồng. T đồng ý rồi trao đổi số điện thoại liên lạc. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T nhận được điện thoại của người bán cần sa gọi từ số 0975662xxx đến số 0566706xxx. Khi T vừa gặp người bán cần sa, đang chuẩn bị giao dịch thì bị cơ quan công an kiểm tra bắt giữ.

Xét nghiệm ma túy trong nước tiểu của Trần Đức M cho kết quả dương tính với que thử, của Nguyễn Hữu C, Lê A T cho kết quả âm tính với que thử.

Đối với Lê A T là đối tượng mua ma túy về sử dụng, kết quả âm tính với que thử ma túy và chưa nhận được ma túy từ Trần Đức M. Ngoài ra T khai T chưa mua ma túy lần nào và không sử dụng ma túy. Ngày 07/10/2022, Cơ quan CSĐT-Công an quận C đã ra thông báo về hành vi mua ma túy về sử dụng đối với Lê A T.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave BKS: 37E1-585.xx, số khung: 643xxx, số máy: 0618xxx, kết quả tra cứu xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Đăng ký xe mang tên anh Phạm Viết C (SN: 1995, HKTT: thôn 1A, T, C, Nghệ An). Anh C khai: Khoảng tháng 10/2018, anh C mua chiếc xe máy và sử dụng hàng ngày. Ngày 12/5/2022 anh C cho bạn là Trần Đức M mượn chiếc xe trên để đi công việc, việc M sử dụng xe đi bán ma túy anh C hoàn toàn không biết. Lời khai của anh Phạm Viết C phù hợp với Trần Đức M. Ngày 07/10/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh C. Anh C không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 điện thoại Samsung Note 10+ thu giữ của Trần Đức M, 01 điện thoại Samsung Note 10+ thu giữ của Trần Hữu C xác định sử dụng để liên lạc mua bán ma túy. Đối với 01 cân điện tử, 01 máy hút chân không là dụng cụ M dùng để chia ma túy ra các túi nhỏ.

Đối với 01 chiếc điện thoại G-mobil thu giữ của Nguyễn Hữu C dùng để liên lạc với người thân và bạn bè.

Đối với số tiền 470.000 đồng và 01 điện thoại 1202 thu giữ của Lê A T là tiền và điện thoại sử dụng để mua ma túy, Đối với đối tượng bán ma túy cho Trần Đức M trên mạng xã hội, do M không nhớ tài khoản, không biết nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Tại Bản cáo trạng số 233/CT-VKSCG ngày 25/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận C đã truy tố các bị cáo Trần Đức M và Nguyễn Hữu C về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C giữ nguyên Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo M từ 36 đến 42 tháng tù, xử phạt bị cáo C từ 24 đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Tịch thu tiêu hủy số ma túy là cần sa khô và các tang vật là công cụ chia, tách ma túy thu giữ của bị cáo M; Tịch thu sung công đối với 02 chiếc điện thoại Samsung Note 10+ thu giữ của các bị cáo; Trả lại 01 điện thoại Nokia và số tiền 470.000 đồng cho anh Lê T A; Trả lại cho bị cáo C chiếc điện thoại G-mobil. Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Đầu tháng 5/2022, Trần Đức M đã mua 108.696 gam cần sa khô về chia tách với mục đích bán lại cho người khác kiếm lời. Hồi 15 giờ 32 phút ngày 12/05/2022, khi M đang cùng C đi giao 8.937 gam ma túy cần sa cho người mua tại khu vực trước tòa N06 khu 5,3ha, phường D, C, H thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, xâm hại đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Bản thân các bị cáo là người đã trưởng thành, dù nhận thức được cần sa là ma túy và việc sở hữu ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng đã cố ý mua về, chia tách thành gói nhỏ, cất giấu để bán lại cho người khác kiếm lời.

Đây là vụ án có đồng phạm mà đóng vai trò chính là Trần Đức M, vừa là người khởi xướng và thực hành tích cực; trực tiếp mua 108.696 gam ma túy cần sa, chia nhỏ và rao bán trên mạng. Vì vậy bị cáo phải có mức án cao hơn so với đồng bọn. Đối với Nguyễn Hữu C, tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức, khi được M rủ đã đồng ý tham gia với nhiệm vụ chở M đi giao ma túy. Với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, xét thấy cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để cải tạo giáo dục đối với các bị cáo.

[4] Tình tiết giảm nhẹ hình phạt và hình phạt bổ sung: Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét việc các bị cáo nhân thân chưa có tiền án tiền sự; có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo; riêng bị cáo C được áp dụng thêm tình tiết phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và gia đình có ông được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, để giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo. Xét bị cáo sống phụ thuộc, chưa có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng: Tang vật của vụ án là 36 túi cần sa, tổng khối lượng 108.696 gam là vật cấm lưu hành nên cho tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cân điện tử và 01 máy hút chân không là công cụ bị cáo M sử dụng để chia tách ma túy nên phải được tiêu hủy.

Đối với 03 chiếc điện thoại, gồm 01 điện thoại Samsung Note 10+ thu giữ của Trần Đức M, 01 điện thoại Samsung Note 10+ thu giữ của Trần Hữu C, 01 điện thoại Nokia 1202 và 470.000 đồng thu giữ của Lê A T là phương tiện dùng để giao dịch mua bán nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại G-mobil thu giữ của Nguyễn Hữu C là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên được trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố các bị cáo Trần Đức M và Nguyễn Hữu C phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

1/ Áp dụng Khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: TRẦN ĐỨC M 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2022.

2/ Áp dụng Khoản 1 điều 251; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: NGUYỄN HỮU C 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 13/5/2022 đến ngày 20/5/2022.

* Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

- Tịch thu tiêu hủy 36 túi cần sa, tổng khối lượng 108.696 gam ma túy cần sa khô trong 3 phong bì niêm phong có chữ ký của các bị cáo và giám định viên, 01 cân điện tử, 01 máy hút chân không.

- Tịch thu sung công 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại Samsung Note 10+ màu xanh bạc của Trần Đức M, 01 điện thoại Samsung Note 10+ màu xanh bạc của Trần Hữu C, 01 điện thoại Nokia 1202 và 470.000 đồng của Lê A T.

- Trả lại 01 chiếc điện thoại G-mobil cho Nguyễn Hữu C.

Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận C theo biên bản giao nhận vật chứng số 21/GN/THA-CA ngày 26/10/2022.

* Áp dụng: Các điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo về phần quyền lợi liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;