Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 02/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 238/2020/TLST-HS ngày 24/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 241/2020/QĐXXST-HS ngày 08/12/2020, đối với các bị cáo:

Họ và tên: Ngô Gia L; Sinh năm 1986; Giới tính: Nữ; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: 1172/12 Phạm Thế H1, Phường E, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Phòng P204 khách sạn Hòa Th, 41B đường số 19, khu dân cư Bình H2, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Ngô Công T, sinh năm 1963; Họ tên mẹ: Mai Thị Minh H3, sinh năm 1957; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có chồng Võ Huỳnh Ngọc Th1 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2003. Tiền án: Ngày 21/09/2017, bị Tòa án nhân dân Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 276/2017/HSST. Đến ngày 27/4/2019 chấp hành xong hình phạt tù. Qua xác minh Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Ch, L đã nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và nộp 5.000.000 đồng tiền phạt; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/8/2020 - Có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên: Nguyễn Phúc V; Sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Tỉnh Đồng Nai; Nơi ĐKHKTT: Ấp Phú T1, xã Phú C, huyện Định Q, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Họ tên cha: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Mỹ H4, sinh năm 1972; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/8/2020 - Có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên: Lê Văn H (Tên gọi khác: Đ1); Sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: 2805/9/4 Phạm Thế H1, Phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Họ tên cha: Lê Văn H5; Họ tên mẹ: Từ Thị Kim H6; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ là Nguyễn Đức Bảo Nh, sinh năm 1995; có 01 con sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/8/2020 - Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Hà Thu B, sinh năm 1958.

Trú tại: 369/26 Nguyễn Triệu L, phường Tân T2, quận Bình T3, Tp.HCM

2. Bà Từ Thị Kim H7.

Nơi ĐKHKTT: Số 2805/9/4 Phạm Thế H1, Phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 50 phút ngày 07/8/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Bình Chánh phối hợp với Công an xã Phong P, huyện Bình Ch tuần tra thì phát hiện Lê Văn H điều khiển xe mô tô biển số 59L1-524.85 đi đến trước số nhà D2/523, tổ 20, ấp 4, xã Phong P, huyện Bình Ch có biểu hiện nghi vấn nên dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ trong túi quần bên phải của H đang mặc 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, H khai nhận số tinh thể trên là ma túy tổng hợp do H mua của Ngô Gia L để sử dụng cho bản thân. Sau đó, lực lượng Công an thu giữ vật chứng và đưa H về trụ sở Công an xã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua test ma túy, H có sử dụng ma túy.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 07/8/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Bình Chánh phối hợp với Công an xã Bình H2, huyện Bình Ch tiến tục tuần tra thì phát hiện Nguyễn Phúc V điều khiển xe mô tô biển số 51R6- 5113 đi đến trước số nhà A11/2 QL50, ấp 2, xã Bình H2, huyện Bình Ch có biểu hiện nghi vấn nên dừng xe kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong túi quần bên phải phía trước của V đang mặc 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, V khai nhận số tinh thể trên là do V mua của Ngô Gia L để sử dụng cho bản thân nên lực lượng Công an tiến hành thu giữ vật chứng và đưa V về trụ sở công an xã Bình H2, huyện Bình Ch lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua test ma túy, V có sử dụng ma túy.

Từ lời khai của H và V, vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/8/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Bình Chánh phối hợp với Công an xã Phong P, huyện Bình Ch tuần tra thì phát hiện Ngô Gia L điều khiển xe mô tô biển số 59U2- 039.46 chở Tiêu Thị Bé H5 đi đến trước địa chỉ D20/532 tổ 20, ấp 4, xã Phong P, huyện Bình Ch có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm. Tại đây, L tự lấy 01 bịch nylon màu đen bên trong có 03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu treo trên xe của mình giao nộp cho lực lượng Công an và khai nhận đây là ma túy tổng hợp (dạng đá và khay) L mua của người phụ tên Ng (không rõ lai lịch) nhằm mục đích để bán lại kiểm lời, nên lực lượng Công an thu giữ vật chứng và đưa L về trụ sở Công an xã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua test ma túy, L có sử dụng ma túy và H không sử dụng ma túy. Sau đó, lực lượng Công an tiến hành khám xét nơi ở của L thì thu giữ 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số 1359/KLGĐ-H ngày 13 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh, kết luận: "Tinh thể không màu trong 01 gói nylon thu giữ của Lê Văn H là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3185g, loại Methamphetamine".

Bản kết luận giám định số 1362/KLGĐ-H ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh, kết luận: "Tinh thể không màu trong 01 gói nylon thu giữ của Nguyễn Phúc V là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6085g, loại Methamphetamine".

Bản kết luận giám định số 1363/KLGĐ-H ngày 14/8/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: "Tinh thể không màu trong 02 gói thu giữ của Ngô Gia L gồm: 01 gói là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 24,9276g, loại Methamphetamine và 01 gói ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9002g, loại Ketamine".

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận như sau:

Lê Văn H khai nhận: Bản thân nghiện ma túy (loại hàng đá), nên vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 07/8/2020, H gọi điện vào số 0707363323 của Ngô Gia L hỏi mua 250.000 đồng ma túy để sử dụng, L đồng ý và kêu H đến bàn ở bên trong sảnh khách sạn Hòa Th, tại địa chỉ 41B, đường 19, KDC Bình Hưng, thuộc ấp 2, xã Bình H2, huyện Bình Ch để lấy ma túy và đưa tiền cho Tiêu Thị Bé H5. Sau đó, H đến địa điểm trên lấy 01 gói ma túy và đưa cho H5 số tiền 250.000 đồng, H không nói cho H5 biết đây là tiền mua ma túy rồi H cất ma túy vào túi quần bên phải phía trước của mình đang mặc và điều khiển xe mô tô biển số 59L1-52485 đi về đến trước số nhà D2/523, tổ 20, ấp 4, xã Phong P, huyện Bình Ch thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ. Ngoài ra, H còn khai nhận: Trước đó, H có 03 lần mua ma túy của L mỗi lần 01 gói ma túy giá từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm.

Nguyễn Phúc V khai nhận: Bản thân nghiện ma túy (loại hàng đá), nên vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 07/8/2020, V gọi vào số 0707363323 của Ngô Gia L hỏi mua 450.000 đồng tiền ma túy, L đồng ý và hẹn V đến sảnh khách sạn Hòa Th, tại địa chỉ 41B, đường 19, KDC Bình H2, thuộc ấp 2, xã Bình H2, huyện Bình Ch để nhận ma túy. Sau đó, V đến địa điểm trên thì có 01 người thanh niên (không rõ lai lịch) đem ma túy xuống đưa cho V và nhận tiền rồi người này rời đi, còn V cất gói ma túy vào túi quần bên phải phía trước của mình đang mặc rồi điều khiển xe mô tô biển số 51R6-5113 đi đến trước số nhà A11/2 QL50, ấp 2, xã Bình H2, huyện Bình Ch thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ. Ngoài ra, V còn khai nhận: Trước đó, V 02 lần mua ma túy của L, mỗi lần với số tiền 250.000 đồng, trong đó 01 lần L trực tiếp giao cho V ở đường nhưng không nhớ thời gian và địa điểm và 01 lần do người thanh niên (không rõ lai lịch) giao cho V theo chỉ đạo của L ở gần khách sạn Hòa Th.

Ngô Gia L khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy và không có tiền tiêu xài, nên vào khoảng tháng 5/2020, L đi mua ma túy về chia nhỏ bán lại kiếm lời, vào tối ngày 06/8/2020, trong lúc L đang ở tại khách sạn thì có người phụ nữ tên Ni (không rõ lai lịch) gọi vào số điện thoại của L đặt mua ma túy, L đồng ý. Sau đó, L điều khiển xe mô tô biển số 59U2- 039.46 đến khu vực công viên Lê Thị R, trên địa bàn Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh mua 02 hộp ma túy đá và 01 hộp ma túy dạng khay của một người phụ nữ tên Ng (không rõ lai lịch) với giá 13.500.000 đồng rồi để vào 01 túi nylon màu đen treo lên móc xe của mình và đi về khách sạn Hòa Th, chở Tiêu Thị Bé H5 đi ăn tối. Khi đi đến trước số nhà D20/532, tổ 20, ấp 4, xã Phong P, huyện Bình Ch thì bị phát hiện. Ngoài ra, L còn khai nhận: Vào ngày 08/7/2020, L đã 02 lần bán ma túy cho người tên Ni (không rõ lai lịch) với giá 21.000.000 đồng thu lợi bất chính số tiền 1.500.000 đồng; 03 lần bán ma túy cho Lê Văn H với với giá từ 100.000 đồng đến 250.000 đồng, thu lợi bất chính 120.000 đồng; bán cho Nguyễn Phúc V 02 lần mỗi lần 250.000 đồng thu lợi bất chính 100.000 đồng. Tổng cộng là 1.720.000 đồng. Trong đó, có 01 lần nhờ người thanh niên (không rõ lai lịch) giao ma túy cho V và 01 lần nhờ Bé H5 lấy tiền của H nhưng việc L mua bán ma túy Tiêu Thị Bé H5 không biết.

Tiêu Thị Bé H5 khai nhận: Vào tối ngày 07/8/2020, trong lúc Ngô Gia L chở H5 đi ăn tối thì H5 chứng kiến việc L bị lực lượng Công an kiểm tra và thu giữ 01 bịch ma túy của L. Ngoài ra, H5 còn khai nhận vào trưa cùng ngày, L có nhờ H5 nhận số tiền 250.000 đồng của H nhưng H5 không biết số tiền trên là tiền mua ma túy và không biết việc L mua bán trái phép chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 24 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Ngô Gia L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nguyễn Phúc V và Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, c và p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Ngô Gia L với mức án từ 12 đến 13 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Phúc V và Lê Văn H với mức án từ 02 đến 03 năm tù.

Phạt bổ sung mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Và xử lý vật chứng như sau: Giao cơ quan điều tra công an huyện Bình Chánh tiếp tục tạm giữ 01 xe mô tô biển số 59U2-039.46, số máy JF66E0257451, số khung: RLHJR5814GY257395 thu giữ của Ngô Gia L và xử lý các vật chứng còn lại theo quy định của pháp luật.

2. Các bị cáo khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, vật chứng của vụ án, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 07/8/2020, bị cáo Ngô Gia L đã bán cho bị cáo Nguyễn Phúc V 01 gói ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,6085g, loại Methamphetamine, với giá 450.000 đồng để V sử dụng; và bán cho bị cáo Lê Văn H 01 gói ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,3185g, loại Methamphetamine với giá 250.000 đồng để H sử dụng tại khách sạn Hòa Th thuộc ấp 2, xã Bình H2, huyện Bình Ch. Đến khoảng 22 giờ 55 phút cùng ngày, khi L đang trên đường đem 01 gói ma túy ở thể rắn, khối lượng 24,9276g, loại Methamphetamine và 01 gói ma túy ở thể rắn, khối lượng 9,9002g, loại Ketamine đi bán cho người tên Ni thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, trước đó, L còn 03 lần bán ma túy cho Lê Văn H và 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Phúc V để thu lợi bất chính.

Cùng ngày Công an xã Phong Phú tuần tra thì phát hiện thu giữ trong túi quần bên phải của Lê Văn H đang mặc 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, H khai nhận số tinh thể trên là ma túy tổng hợp ở thể rắn, có khối lượng 0,3185g, loại Methamphetamine; thu giữ của bị cáo Nguyễn Phúc V 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6085g, loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Ngô Gia L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c và p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); bị cáo Nguyễn Phúc V và Lê Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố các bị cáo với các tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an tòan xã hội, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi mua bán trái và tàng trữ phép chất ma túy, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; đồng thời buộc các bị cáo nộp phạt bổ sung một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 và khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Ngô Gia L đã bán ma túy cho nhiều người và nhiều lần cụ thể như sau: Vào ngày 08/7/2020, L đã 02 lần bán ma túy cho người tên Ni (không rõ lai lịch) với giá 21.000.000 đồng thu lợi bất chính số tiền 1.500.000 đồng; 03 lần bán ma túy cho Lê Văn H với với giá từ 100.000 đồng đến 250.000 đồng, thu lợi bất chính 120.000 đồng; bán cho Nguyễn Phúc V 02 lần mỗi lần 250.000 đồng thu lợi bất chính 100.000 đồng. Ngoài ra bị cáo đã có 01 tiền án: Ngày 21/09/2017, bị Tòa án nhân dân Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 276/2017/HSST chưa xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuy nhiên bị cáo không biết làm ăn lương thiện lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội chứng tỏ bị cáo rất xem thường pháp luật. Vì vậy, cần có mức án nghiêm đối với bị cáo để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Ngoài ra cần buộc bị cáo L nộp số tiền đã thu lợi bất chính từ việc ma bán ma túy là 1.720.000 đồng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[7] Đối với bà Lê Thị Thu Thủy là chủ khách sạn Hòa Th tại địa chỉ 41B, đường 19, KDC Bình Hưng, thuộc ấp 2, xã Bình H2, huyện Bình Ch, thành phố Hồ Chí Minh cho Ngô Gia L thuê phòng để ở nhưng bà Thủy không biết việc L mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy tại đây nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không xử lý. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Đối với Tiêu Thị Bé H5 là người ở cùng phòng khách sạn với Ngô Gia L và một lần giúp L nhận tiền bán ma túy cho Lê Văn H nhưng H5 không biết số tiền trên là tiền bán ma túy và cũng không biết việc L mua bán ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không đủ căn cứ xử lý. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Đối với người thanh niên bán ma túy giúp L, do không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét, khi đủ cơ sở sẽ xử lý sau. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[10] Đối với đối tượng Ng là người bán ma túy cho L và Ni là người đặt mua ma túy của L do chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục truy tìm xử lý sau. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[11] Đối với các số điện thoại 0707.363.323, 0906.272.387, 0902982.371, 0765. 843.657, 0783.620.415 và sim số 0923.870.213 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã có công văn yêu cầu Trung tâm tính cước và thanh khoản Mobifone và Công ty cổ phần Vietnamobile tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả.

Khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

[12] Về vật chứng vụ án:

1. Thu giữ của Ngô Gia L:

- Thu giữ của Ngô Gia L 01 gói ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 24,9276g loại Methamphetamine và 01gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9002 gam loại Ketamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma tuý. Xét đây là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 ĐTDĐ hiệu NOKIA có IMEI 1357336071818558, IMEI2: 357336084240552, bên trong có 01 sim cắt trên sim có số 6445; 01 ĐTDĐ hiệu OPPO bên trong có 01 sim cắt trên sim có số 3712WD; 02 ĐTDĐ hiệu IPHONE có IMEI: 358368069611670; 01 ĐTDĐ hiệu SAMSUNG bên trong có 01 sim cắt trên sim có số 1225775934. Cả 05 điện thoại trên, L sử dụng làm phương tiện để liên lạc mua bán ma túy. Xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe mô tô biển số 59U2-039.46, số máy JF66E0257451, số khung: RLHJR5814GY257395 là phương tiện L dùng vào việc phạm tội. L khai nhận xe mô tô trên L mua của một người không rõ lai lịch. Tiến hành xác minh đã xác định xe mô tô biển số 59U2-039.46 thuộc sở hữu hợp pháp của chị Trần Hà Thu Bích (sinh năm 1958; địa chỉ: 36/9/26, Nguyễn Triệu Luật, phường Tân Tạo, quận Bình Tân). Chị Bích bị mất xe vào năm 2018 và khi mất xe chị Bích không trình báo công an. Xét đây là tài sản mà bà Bích là chủ sở hữu hợp pháp bị mất và bà Bích không biết bị cáo dùng để làm phương tiện phạm tội nên cần trả lại cho bà Bích theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Thu giữ của Nguyễn Phúc V:

- 01 gói nylon thu giữ của Nguyễn Phúc V là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,6085g, loại Methamphetamine. Xét đây là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu đen số Imei: 357931/09/066427/2. Imei 2: 357932/09/066427/0 cùng 01 sim, V dùng vào việc phạm tội. Xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe mô tô biển số 51R6-5113, số máy HC09E-6661105, số khung: RLHHC9017Y841995. V khai nhận xe mô tô trên do V mua của anh Nguyễn Thanh Thanh Tâm; địa chỉ 271/5/47, Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp. Qua làm việc với anh Tâm xác định xe mô tô trên do anh mua và đứng tên chủ sở hữu nhưng anh Tâm đã bán xe cho một người thanh niên và khi bán không làm giấy mua bán nên anh không nhớ lai lịch của người mua. Xét đây phương tiện bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

3. Thu giữ của Lê Văn H:

- 01 gói nylon thu giữ của Lê Văn H là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,3185g, loại Methamphetamine; 01 nỏ sử dụng ma túy. Xét đây là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe mô tô biển số 59L1-524.85, số khung RLHJC5215CY224823; số máy JC52E-4325595. Qua xác minh chiếc xe thuộc sở hữu hợp pháp của bà Từ Thị Kim Hằng (là mẹ của bị cáo Huyền) bà Hằng cho H mượn để làm phương tiện đi lại và bà không biết H sử dụng xe để đi mua ma túy. Xét đây là tài sản bà Hằng là chủ sở hữu hợp pháp và bà Hằng không biết bị cáo dùng để làm phương tiện phạm tội nên cần trả lại cho bà Hằng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 ĐTDĐ hiệu RDMI màu xanh, bị cáo H dùng vào việc phạm tội; Xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 đoạn ống hút nhựa; 01 quẹt gas. Xét đây là vật chứng không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[13] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[14] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với các bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị của các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c và p khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Ngô Gia L;

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Văn H và Nguyễn Phúc V;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử phạt bị cáo: Ngô Gia L 12 (Mười H5) năm tù.

Về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/8/2020.

Buộc bị cáo Ngô Gia L nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.

Buộc bị cáo Ngô Gia L nộp lại số tiền thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy mà có là 1.720.000 (Một triệu bảy trăm hai mươi ngàn) đồng.

2. Xử phạt bị cáo: Lê Văn H 02 (H5) năm tù.

Về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

Buộc bị cáo Lê Văn H nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.

3. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Phúc V 02 (H5) năm tù.

Về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/8/2020.

Buộc bị cáo Nguyễn Phúc V nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 gói ma túy ở thể rắn, tổng khối lượng 24,9276g loại Methamphetamine và 01gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9002 gam loại Ketamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma tuý thu giữ của bị cáo Ngô Gia L; 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn khối lượng 0,6085g loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo Nguyễn Phúc V; 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn khối lượng 0,3185g loại Methamphetamine; 01 nỏ sử dụng ma túy; 01 đoạn ống hút nhựa; 01 quẹt gas thu giữ của bị cáo Lê Văn H.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu NOKIA có IMEI 1 357336071818558, IMEI2: 357336084240552, bên trong có 01 sim cắt trên sim có số 6445; 01 ĐTDĐ hiệu OPPO bên trong có 01 sim cắt trên sim có số 3712WD; 02 ĐTDĐ hiệu IPHONE có IMEI: 358368069611670; 01 ĐTDĐ hiệu SAMSUNG bên trong có 01 sim cắt trên sim có số 1225775934 thu giữ của bị cáo Ngô Gia L; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu đen số Imei: 357931/09/066427/2. Imei 2:357932/09/066427/0 cùng 01 sim; 01 xe mô tô biển số 51R6-5113, số máy HC09E- 6661105, số khung: RLHHC9017Y841995 thu giữ của bị cáo Nguyễn Phúc V; 01 ĐTDĐ hiệu RDMI màu xanh thu giữ của bị cáo Lê Văn H.

Trả lại cho bà Trần Hà Thu Bích 01 xe mô tô biển số 59U2-039.46, số máy JF66E0257451, số khung: RLHJR5814GY257395.

Trả lại cho bà Từ Thị Kim Hằng 01 xe mô tô biển số 59L1-524.85, số khung RLHJC5215CY224823; số máy JC52E-4325595.

(Tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/11/2020 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 02/2021/HS-ST

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;