Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 01/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂNQUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 01/2021/HSST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07tháng 01năm 2021 tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 330/2020/HSSTngày 26 tháng 11năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 361/2020/QĐXXST- HS ngày 11/12/2020 đối với bị cáo:

TRỊNH CÔNG L, sinh năm 2000, tại Hà Nội; Nơi ĐKHKTT: P405 CT2 tổ hợp chung cư cao tầng X, phường P, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Trịnh Xuân B; Con bà:Nguyễn Thị V; Tiền án tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 479 do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Cầu Giấy lập ngày 21/8/2020. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến ngày 14/8/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Duy T, sinh năm: 2002. Vắng mặt HKTT: số 53 P1, N, Cầu Giấy, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h30 ngày 04/8/2020, tại khu vực trước nhà số 97 đường T1, N, Cầu Giấy, Hà Nội, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận Cầu Giấy phát hiện Trịnh Công L và Nguyễn Duy T (SN: 10/11/2002, HKTT: Số 53 P1, N, Cầu Giấy, Hà Nội) có biểu hiện nghi vấn mua bán trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra. Qúa trình kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi quần bên phải L đang mặc 01 túi nilong màu trắng bên trong có 03 túi nilong đều chứa các hạt tinh thể màu trắng và viên nén màu xanh là ma túy “ke” và “kẹo” L mang đến bàn cho T. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật, đưa L và T về trụ sở làm việc. Ngoài ra, Cơ quan Công an còn thu giữ của L: 01 điện thoại Nokia số sim 032.540.8949, thu giữ của T: 01 điện thoại Nokia số sim 085.459.5656.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Công L tại P405 Chung cư CT2 X, P, Hà Đông, Hà Nội không phát hiện, thu giữ đồ vât liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 7208/KLGĐ-PC09 ngày 11/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

+ Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi nilong thu giữ của Trịnh Công L đều là ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng: 1,290 gam + 07 viên nén màu xanh bên trong 01 túi nilong thu giữ của Trịnh Công L đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,450 gam.

Tại cơ quan công an, Trịnh Công L khai: Bản thân L có sử dụng ma túy. Khoảng 18h30 ngày 04/8/2020, L đang ở nhà tại P405 Chung cư CT2 X, P, Hà Đông, Hà Nội thì nhận được điện thoại của T (là bạn xã hội) từ số 0854.595.656 gọi đến số 032.540.8949 của L hỏi mua 07 viên ma túy “kẹo” và 03 chỉ ma túy “ke”. L báo giá 16.800.000 đồng, T đồng ý và hẹn L đến khu vực T1 để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó, L đi xe ôm đến khu vực ngõ T2 mua được 03 chỉ ma túy “ke” và 07 viên ma túy “kẹo” của một người phụ nữ không quen biết với giá 12.000.000 đồng. Mua xong, L cất số ma túy trên vào túi quần bên phải Long đang mặc rồi đi xe ôm về đến đầu đường T1 xuống xe, đi bộ đến khu vực 97 T1 và gọi điện cho T báo đã đến chỗ hẹn. Khi L và T gặp nhau nhưng chưa kịp mua bán ma túy thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ như đã nêu trên.

Nguyễn Duy T khai: Khoảng 21h30 ngày 04/8/2020, T gặp L ở khu vực trước nhà số 97 T1 để mua ma túy nhưng chưa kịp giao dịch mua bán ma túy bị Cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ như đã nêu trên. T không mang theo tiền mua ma túy do muốn xem số ma túy L mang đến trước rồi mới giao tiền sau.

Xét nghiệm nước tiểu của Trịnh Công L và Nguyễn Duy T cho kết quả âm tính với chất ma túy.

Lời khai của Trịnh Công L phù hợp với lời khai Nguyễn Duy T, lời khai người chứng kiến, tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho L, do L không biết nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý.

Đối với Nguyễn Duy T, do T chưa mua được ma túy của Trịnh Công L đã bị kiểm tra, bắt giữ nên Cơ quan điều tra không đề cập, xử lý.

Đối với tang vật thu giữ, qua điều tra xác định: 01 điện thoại Nokia số sim 032.540.8949 và 01 điện thoại Nokia số sim 085.459.5656, L và T sử dụng để liên lạc mua bán ma túy Cáo trạng số 331/CT - VKSCG ngày 20/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Trịnh Công Lvề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Trịnh Công L, xử phạt bị cáo mức án từ 42 thángđến 48 tháng tù. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Về tang vật áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong bên trong có 03 túi nilong chứa các hạt tinh thể máu trắng và 01 túi nolong chứa 07 viên nén màu xanh có chữ ký của giám định viên và bị cáo Trịnh Công L.

- Tịch thu sung công quỹ 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, sim số: 0325408949 của bị cáo Long và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, sim số: 0854595656 của Nguyễn Duy T do có liên quan đến hành vi phạm tội.

Về dân sự: Không.

Tại phiên toà: Bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Trịnh Công L trình bày lời nói sau cùng: bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã ăn năn hối hận và mong muốn được sự khoan hồng để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố,Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21h30’ ngày 04 tháng 8 năm 2020, tại khu vực trước cửa nhà số 97 T1, phường N, Cầu Giấy, Hà Nội, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Cầu Giấy bắt quả tang Trịnh Công L có hành vi tàng trữ trái phép 1,290 gam ma túy loại Ketamine và 2,450 gam ma túy loại MDMA mục đích để bán cho Nguyễn Duy T nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ cùng tang vật.

Hành vi nêu trên của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội.

[3] Nhận xét về nhân thân và lượng hình đối với bị cáo: Tính chất hành vi phạm tội thể hiện bị cáo là một người đã trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân và cộng đồng, mà lại có hành vi vi phạm có liên quan đến ma túynên Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để đảm bảo sức răn đe phòng ngừa tội phạm và giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về tang vật: Áp dụng Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong bên trong có 03 túi nilong chứa các hạt tinh thể máu trắng và 01 túi nolong chứa 07 viên nén màu xanh có chữ ký của giám định viên và bị cáo Trịnh Công L.

- Tịch thu sung công quỹ 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, sim số: 0325408949 của bị cáo L và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, sim số: 0854595656 của Nguyễn Duy T do có liên quan đến hành vi phạm tội.

Về dân sự: Không.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Công L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s, khoản 1 của Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt:Bị cáo Trịnh Công L 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù kể từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến ngày 17/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong bên trong có 03 túi nilong chứa các hạt tinh thể máu trắng và 01 túi nolong chứa 07 viên nén màu xanh có chữ ký của giám định viên và bị cáo Trịnh Công L.

- Tịch thu sung công quỹ 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, sim số: 0325408949 của bị cáo Long và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, sim số: 0854595656 của Nguyễn Duy T do có liên quan đến hành vi phạm tội.

Về dân sự: Không.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 40/GN/THA-CA ngày 26/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội) 3. Về dân sự: Không.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trịnh Công L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 01/2021/HSST

Số hiệu:01/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;