Bản án về tội mua bán người số 159/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 159/2024/HS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI

Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2024/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2024/QĐXX-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đối với bị cáo:

Họ và tên: Lữ Thị T, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày: 01 tháng 7 năm 1982, tại huyện K, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ Mú; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 0/12; Con ông: Lữ Xuân T1 (đã chết) và con bà: Ngân Thị L, sinh năm 1963; Anh chị em ruột: Có 6 người, bị cáo là con thứ hai; Chồng: Xeo Văn T2, sinh năm 1975; Con: Có 5 người (lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2016).

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 04 năm tù về tội "Mua bán trẻ em" theo bản án số 104/2016/HSST ngày 22/9/2016;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2024 cho đến nay. Có mặt.

Bị hại: Moong Thị C, sinh ngày 20/8/1993. Địa chỉ: bản N, xã X, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Cụt Thị M, sinh năm 1971. Địa chỉ: bản N, xã X, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Ông Moong Văn L1, sinh năm 1969. Địa chỉ: bản N, xã X, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Ông Xeo Văn T2, sinh năm 1975. Địa chỉ: bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Chị Xeo Thị T3, sinh năm 2003. Địa chỉ: bản L, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1980. Trợ giúp viên Trung Tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Tỉnh N. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 5/2015, Lữ Thị T được người phụ nữ tên N trú ở huyện K, tỉnh Nghệ An đến nhà chơi và đặt vấn đề tìm người phụ nữ đưa sang Trung Quốc để bán lấy chồng, nếu tìm được một người sẽ cho T 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Lữ Thị T đồng ý việc tìm người, còn N sẽ đưa người sang Trung Quốc để bán cho người đàn ông Trung Quốc lấy làm vợ. Khoảng cuối tháng 5/2015, Lữ Thị T đến nhà Moong Thị C (sinh năm 1993, trú tại bản N, xã X, huyện T, tỉnh Nghệ An) và hỏi: "Cháu có đi làm việc Trung Quốc không, sang bên Trung Quốc làm việc thì được nhiều tiền, ở nhà thì gia đình nghèo khó". Lúc đó, Moong Thị C trả lời: "Để suy nghĩ đã". Khoảng ba ngày sau, Lữ Thị T gọi điện thoại cho Moong Thị C và hỏi: "Cháu có đi Trung Quốc để làm việc không?" thì C đồng ý. Lữ Thị T bảo Moong Thị C chuẩn bị đồ đạc, khi nào gọi thì đi. Sau đó, Lữ Thị T về nhà gặp N nói: "Có một đứa ở bản N, xã X, huyện T đồng ý đi Trung Quốc", thì N đồng ý và nói: "Khi nào đi thì N đưa tiền cho". Khoảng năm ngày sau thì N xuống nhà đưa cho Lữ Thị T 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Sau khi nhận tiền xong, Lữ Thị T gọi điện thoại cho C nói: "Cháu bắt xe lại xuống bến xe H thuộc thị trấn H, huyện T (nay là thị trấn T, huyện T) có người tên là N đón". Khi N gặp được Moong Thị C ở bến xe H thì N có gọi điện thông báo cho Lữ Thị T nói: "Em gặp được Moong Thị C, lên xe đi rồi nha". Sau đó, N đưa Moong Thị C sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch rồi về ở tại nhà của N (ở Trung Quốc). Khoảng hai tuần sau, khi Moong Thị C sang Trung Quốc thì Lữ Thị T cũng sang Trung Quốc và ở nhà của N. Tại đây, Moong Thị C có hỏi Lữ Thị T và N: "Tại sao khi sang đây không có việc làm?" và Lữ Thị T nói: "Không có việc làm thì cháu đi lấy chồng đi", Moong Thị C nói: "Nếu lấy chồng thì cho cháu 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng)". Lúc đó, N không đồng ý và nói: "Chỉ được 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng) thôi" thì Moong Thị C đồng ý. Khoảng 5 ngày sau, Nhất trở về Việt Nam và chi phí đi về do N chi trả. Sau khoảng một tháng thì Moong Thị C lấy chồng, được nhà chồng trả bảy vạn nhân dân tệ (tương đương khoảng 210.000.000 đồng tiền Việt Nam). Khoảng bốn tháng sau thì N gọi điện cho Lữ Thị T nói: "Chị ơi, con Chơ hắn lấy chồng rồi, em nuôi hắn không được đồng mô, họ mối cho con Chơ được hai vạn (ý nói 20.000 nhân dân tệ), em gửi về 60.000.000 đồng, chị đưa xuống cho gia đình Chơ, còn 10.000.000 đồng khi nào con Chơ về, em đưa nó cầm về". Sau đó, N chuyển khoản cho T 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng). Lữ Thị T đã cầm chứng minh nhân dân đến cửa hàng V, chi nhánh huyện K để rút tiền. Sau khi rút tiền xong, T đã cầm số tiền này đưa đến cho anh Moong Văn LI (bố đẻ của Moong Thị C) và T nói: "Còn 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) khi nào Moong Thị C về thì chị N đưa cho". Moong Thị C sinh sống cùng nhà chồng ở Trung Quốc đến tháng 02/2024 thì bị Công an Trung Quốc bắt trục xuất về Việt Nam.

Ngày 09/4/2024, Moong Thị C viết đơn tố cáo Lữ Thị T đã đưa Moong Thị C sang Trung Quốc bán.

* Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Lữ Thị T đã bồi thường cho Moong Thị C số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) và C không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bản Cáo trạng số 161/CT-VKSNA-P2 ngày 12/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã quyết định truy tố bị cáo Lữ Thị T về tội "Mua bán người" theo điểm đ khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Lữ Thị T mức án từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù.

Trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét. Về vật chứng: Không.

Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Không tranh luận về tội danh. Bị cáo không được đi học nên nhận thức pháp luật hạn chế; sống ở địa bàn có điểm nóng về tội mua bán người; bị cáo hưởng lợi không đáng kể; trong vụ án này bị hại cũng có lỗi, biết bị đưa sang Trung Quốc nhưng vẫn đồng ý. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tác động đến gia đình và đã bồi thường cho bị hại Moong Thị C 10.000.000 đồng. Bị hại Moong Thị C có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Lữ Thị T mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã đề nghị.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, không bổ sung lời bào chữa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức nhẹ nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tương Dương, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đều đề nghị xét xử. Xét thấy sự vắng mặt những người đó không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Lữ Thị T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng cuối tháng 5/2015, Lữ Thị T đã đưa Moong Thị C (sinh năm 1993, trú tại bản N, xã X, huyện T, tỉnh Nghệ An) cho người phụ nữ tên N để đem bán C cho người đàn ông Trung Quốc lấy làm vợ với giá 7 vạn nhân dân tệ (tương đương 210.000.000 đồng tiền Việt Nam). Sau khi bán Moong Thị C xong, N chuyển khoản về cho T 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) và số tiền này T đã đưa cho gia đình C. Số tiền Lữ Thị T được hưởng lợi trong việc bán Moong Thị C là 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

Do đó, Hội đồng xét xử kết luận hành vi của bị cáo Lữ Thị T đã phạm vào tội "Mua bán người", với tình tiết "Để đưa ra nước ngoài" được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lữ Thị T với tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét thấy, hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là cố ý xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của người phụ nữ, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có sức khỏe, có công việc ổn định, có hiểu biết nhưng không chịu tu chí làm ăn, thích hưởng thụ, biết việc mua bán người sang Trung Quốc có lợi nhuận cao, chỉ vì lợi ích cá nhân mà coi thường pháp luật, lợi dụng sự nhẹ dạ và hoàn cảnh khó khăn của những người phụ nữ để đưa họ sang Trung Quốc bán nhằm thu lợi bất chính nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt:

[4.1] Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân về tội "Mua bán trẻ em". Tuy nhiên, hành vi mua bán trẻ em xảy ra sau nhưng xử trước và bị cáo cũng đã thi hành xong hình phạt của bản án này.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò tích cực; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận đối với hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt; trong quá trình điều tra đã bồi thường cho bị hại Moong Thị C 10.000.000 đồng; Bị hại Moong Thị C không yêu cầu bồi thường về dân sự; trong quá trình điều tra và trong đơn xin xét xử vắng mặt đều đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần áp dụng điểm s, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để xem xét xử phạt bị cáo mức án phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn, số tiền thu lợi bất chính không lớn, đã bồi thường cho bị hại đủ theo yêu cầu của bị hại. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Trách nhiệm dân sự: Chị Moong Thị C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về số tiền 1.000.000 đồng là tiền bị cáo T thu lợi bất chính: Xét thấy, sau khi chị Moong Thị C từ Trung Quốc trở về và có yêu cầu bị cáo phải bồi thường 10.000.000 đồng, chồng của bị cáo là anh Xeo Văn T2 đã bồi thường đủ cho chị C 10.000.000 đồng. Do số tiền bị cáo phải bồi thường vượt quá số tiền bị cáo được hưởng lợi nên không truy thu số tiền 1.000.000 đồng đối với bị cáo là phù hợp.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về các nội dung khác: Đối với người phụ nữ tên N đưa Moong Thị C sang Trung Quốc để bán cho người đàn ông Trung Quốc làm vợ. Quá trình điều tra không xác định được người phụ nữ tên N ở đâu nên Cơ quan CSĐT tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lữ Thị T phạm tội "Mua bán người".

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt: Căn cứ vào điểm đ khoản 2, Điều 119 Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 38; điểm s, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Lữ Thị T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 11/4/2024.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Không xem xét.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án, lệ phí Tòa án, bị cáo Lữ Thị T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán người số 159/2024/HS-ST

Số hiệu:159/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;