TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 35/2024/HS-PT NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN HÀNG CẤM
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 430/2023/TLPT-HS ngày 10/11/2023 đối với bị cáo Phạm Hữu S, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 189/2023/HSST ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Phạm Hữu S; sinh năm 1987; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; nơi ĐKNKTT: F đường T, Phường E, quận G , Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà N, Hẻm R, tổ E, khu phố N, phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; con ông Phạm Hữu T (chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc G; vợ: Vũ Thúy Q (đã ly hôn); con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2022 đến ngày 14/12/2022, đượ thay đổi bằng biện pháp ngăn hặn “Cấm đi khỏi nơi ư trú”; bị cáo tại ngoại – Có mặt tại phiên tòa.
1. Người bào chữa cho bị cáo Phạm Hữu S:
Ông Phạm Đức H, luật sư của Công ty luật TNHH V, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2. Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo và không bị kháng nghị: Không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 27/4/2022, Phạm Hữu S gọi điện thoại cho Trần Đức T đặt mua của ông Trần Đức T 1.200 bao thuốc lá điếu nhập lậu, gồm: 80 cây thuốc lá điếu nhãn hiệu JET, 20 cây thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero, 10 cây thuốc lá điếu nhãn hiệu Esse Lights và 10 cây thuốc lá nhãn hiệu Esse Menthol (mỗi cây là 10 bao thuốc lá điếu). Sau đó, Trần Đức T gọi điện thoại cho một người đàn ông tên D (chưa rõ lai lịch) để đặt mua số thuốc lá trên. Trần Đức T điều khiển xe mô tô biển số 59Y1-567.xx đến khu vực bến xe An Sương gặp D và nhận 1.200 bao thuốc lá điếu nhập lậu như đã yêu cầu; Trần Đức T mua của Danh với giá: 178.000 đồng/cây thuốc lá nhãn hiệu Jet, 148.000 đồng/cây thuốc lá nhãn hiệu Hero và 150.000 đồng/cây thuốc lá nhãn hiệu Esse.
Đến khoảng 09h00’ ùng ngày, Trần Đức T điều khiển xe mô tô vận chuyển 1.200 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại nêu trên đến nhà không số, Hẻm 528, đường Trường Chinh, khu phố 2, phường Tân Hưng T, Quận 12 để giao cho S. Tại đây, Trần Đức T đã giao ho S 200 bao thuốc lá hiệu Esse và được S đem vào nhà để cất giấu; khi Trần Đức T đang giao 800 bao thuốc lá hiệu Jet và 200 bao thuốc lá điếu hiệu Hero cho S thì bị Công an Quận 12 phát hiện bắt quả tang. Đồng thời, tiến hành khám xét nơi ở của S tại địa chỉ nêu trên, Công an còn thu giữ 11.098 bao thuốc lá điếu các loại, gồm: 2.888 bao thuốc lá điều nhập lậu các loại (trong đó ó 200 bao thuốc lá Esse mà S mới nhận của Tuyên) và 8.210 bao thuốc lá ghi chữ Việt Nam. Cụ thể:
- Thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 100 (một trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Jet Epresso; 100 (một trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Jet Cappuchino; 100 (một trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Jet Café Latte; 100 (một trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Blend No.555 Gold; 90 ( hín mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Blend No.555 Original; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Blend No.555 Madarin; 40 (bốn mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Jet Blend Gold; 130 (một trăm a mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Esse Lights; 100 (một trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Esse Methol;
1.490 (một nghìn, bốn trăm hín mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Esse Change; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Esse Golen Leaf; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Esse (có hình cây trúc); 50 (năm mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Canyon;
50 (năm mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Bla k Devil; 30 (ba mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Marlcoro Gold; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Marlboro Lights;
20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Marlboro Gold Original; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Craven “A”; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Captain Bla k; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Mond (màu xanh); 25 (hai mươi lăm) bao thuốc lá điếu hiệu Black Stone; 73 (bảy mươi ba) bao thuốc lá điếu hiệu Forte Methol; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Zest; 50 (năm mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Capri; 100 (một trăm) bao thuốc lá điếu hiệu Mond Varian e; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Cohi a; 10 (mười) bao thuốc lá điếu hiệu Jewels Original; 10 (mười) bao thuốc lá điếu hiệu Jewels Vanilla; 20 (hai mươi) bao thuốc lá điếu hiệu Double Diamond Cho olate; 10 (mười) bao thuốc lá điếu hiệu Double Diamond Vanilla; 10 (mười) bao thuốc lá điếu hiệu Tycoon Romantic Chocolate;
- Thuốc lá điếu có tem thuốc lá ghi chữ Việt Nam trên sản phẩm không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, gồm: 1270 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Batos; 2240 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Saigon Siler; 810 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Graven “A” Classi; 1000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Graven Demi; 340 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Saigon Slim; 1000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu No.555 Gold; 160 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Meliu; 150 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Thăng Long Slim; 200 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Thăng Long; 450 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Saigon (xanh); 230 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu White Horse; 140 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Graven Chill; 220 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Marlboro.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 12, bị cáo Phạm Hữu S đã khai nhận như sau:
Phạm Hữu S và Trần Đức T đã giao dịch mua bán thuốc lá điếu nhập lậu khoảng từ 4 đến 5 lần, chủ yếu là giao dịch các loại thuốc điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet, Esse, Hero; giá mua bán thường là 177.000 đồng/cây thuốc lá nhãn hiệu Jet, 147.000 đồng/cây thuố lá nhãn hiệu Hero, 150.000 đồng/cây thuốc nhãn hiệu Esse. Mỗi lần giao dịch mua bán với T, S đều nhận thứ được đây là hàng hóa nhập lậu do trên vỏ bao bì ghi chữ nước ngoài, không có tem thuốc lá Việt Nam. Đồng thời, Trần Đức T cũng nói cho S biết đây là thuốc lá nhập lậu, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ.
Đối với 2.888 bao thuốc lá được thu giữ tại nhà của S, S thừa nhận số thuốc lá nhập lậu này là của S, đượ S mua trôi nổi trên thị trường từ khoảng tháng 03 đến tháng 04/2022. Sau khi, S nhập các loại thuốc lá điếu nhập lậu các nhãn hiệu (như: Jet, Hero, Esse, Craven, Mond, Marl oro, Blend No.555...) trên thị trường, S sẽ án lại các điểm bán thuốc lá như các tiệm tạp hóa, các xe bán nước giải khát…, nhằm mục đích thu lợi bất hính.
Để án thuốc lá trên, S sẽ đặt xe Grap và mang theo thuốc lá điếu nhập, thuốc lá xuất xứ Việt Nam đi đến các điểm bán để hào hàng, điểm nào mua S sẽ bán, hoặc khách trực tiếp đến nhà S để mua.
Theo Công văn 54/CV-2022 HHTLVN ngày 05/5/2022 của Hiệp Hội thuốc lá Việt Nam, kết luận: 3.888 bao thuốc lá điếu lá loại thu giữ tại nhà của S và trên xe của Trần Đức T mà Cơ quan CSĐT Công an Quận 12 đang tạm giữ trong vụ việc là thuốc lá điếu nhập lậu.
Đối với 8.210 bao thuốc lá ghi chữ Việt Nam trên sản phẩm được S mua trôi nổi trên thị trường với nhiều nguồn khác nhau như Công ty Kim Đ, Công ty Hoàng A hoặc các điểm bán nhỏ lẻ trên thị trường.
Vật chứng thu giữ: Đã được liệt kê và nhập kho vật chứng theo Quyết định chuyển vật chứng số: 06/QĐ-VKS ngày 16/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 189/2023/HS-ST ngày 21/9/2023 và các Thông báo sửa chữa bổ sung bản án số 68/2023/TB-TA ngày 25/10/2023 và số 03/2024/TB-TA ngày 09/01/2024 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Trần Đức T bố bị cáo Phạm Hữu S phạm tội “Mua bán hàng cấm”.
- Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Phạm Hữu S 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, trừ đi thời gian đã ị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2022 đến ngày 14/12/2022.
- Ngoài ra, bản án còn Trần Đức T về xử lý vật chứng, nghĩa vụ truy nộp tiền thu lợi bất chính, án phí và quyền kháng áo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2023, bị cáo Phạm Hữu S kháng cáo một phần bản án nêu trên về trách nhiệm hình sự, xin giảm nhẹ hình phạt vì cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 năm tù là quá nặng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Phạm Hữu S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm và bản Cáo trạng truy tố.
- Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích về tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết định khung, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo; đã kết luận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Hữu S , phạm tội “Mua bán hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong thời gian luật định và hợp lệ nên được chấp nhận để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng lý do bị cáo nêu ra: về hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính đã được cấp sơ thẩm xem xét áp dụng; tại cấp phúc có tình tiết mới đã nộp lại khoản tiền thu lợi bất hính nhưng ngoài hành vi phạm tội bị xét xử, bị cáo S còn có hành vi tàng trữ số lượng thuốc lá điếu giả nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm; và mức án 05 năm tù cấp sơ thẩm đã Trần Đức T phạt đối với bị cáo ở mức đầu khung hình phạt bị áp dụng (xử phạt từ 05 năm đến 10 năm tù) là thỏa đáng, đã thể hiện sự khoan hồng.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hữu S, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh về hình phạt của bị cáo.
- Bào chữa cho bị cáo Phạm Hữu S: Luật sư thống nhất với tội danh và khung hình phạt Viện kiểm sát truy tố nên không tranh luận. Luật sư chỉ phân tích về hoàn cảnh gia đình và tình tiết giảm nhẹ, như: gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, bị cáo là lao động chính (có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú) - cấp sơ thẩm có nhận định nhưng phần Quyết định chưa áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, là có thiếu xót; tại cấp phúc thẩm, đã tích sự để khắc phục hậu quả nộp lại toàn bộ tiền thu lợi bất chính. Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khách quan, toàn diện vụ án, xử phạt bị cáo mức án khoan hồng, cho bị cáo cơ hội sớm chấp hành xong hình phạt để trở về hăm sóc, nuôi dưỡng mẹ già và em gái là người khuyết tật.
Bị cáo Phạm Hữu S đồng ý với quan điểm bào chữa của luật sư, không tranh luận và bào chữa bổ sung; bị cáo chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn và mong được pháp luật khoan hồng để sửa chữa, làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn ứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo Phạm Hữu S tại Cơ quan Cảnh sát điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo tại các phiên tòa (sơ thẩm, phúc thẩm); và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các biên bản (khám xét; tạm giữ đồ vật – tài liệu, niêm phong vật chứng), lời khai người có quyền, nghĩa vụ liên quan; cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan cảnh điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Đã đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 09h00’ ngày 27/4/2022, bị cáo Phạm Hữu S đã thực hiện hành vi mua bán trái phép 1.200 bao thuốc lá điếu nhập lậu của Trần Đức T để bán lại kiếm lời; sau khi nhận và cất giấu 200 bao thuốc lá nhãn hiệu Esse vào trong nhà, S và Trần Đức T đang tiếp tục giao nhận 1.000 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và Hero, tại trước nhà của S thì bị lự lượng Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng.
Đồng thời, tiến hành khám xét tại chỗ nơi ở của Phạm Hữu S, Công an còn thu giữ tổng cộng là 11.098 bao thuốc lá điếu các loại, gồm: 2.888 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (trong đó, có 200 bao thuốc lá nhãn hiệu Esse mà S mới mua của Trần Đức T nêu trên); và 8.210 bao thuốc lá điếu có ghi chữ Việt Nam trên sản phẩm không có hóa đơn, chứng từ (trong đó, ó 500 bao thuốc lá nhãn hiệu 555 Gold là hàng giả và 7.710 bao thuốc lá các loại là hàng thật) do S mua trôi nổi trên thị trường để bán lại cho các địa điểm kinh doanh nhỏ lẻ nhằm mụ đích kiếm lời.
Như vậy, với số lượng hàng cấm bị thu giữ dùng để mua bán trái phép là 3.888 bao thuốc lá điếu nhập lậu, thuộc trường hợp “thuốc lá điếu nhập lậu từ 3000 bao đến dưới 4.500 bao” và hành vi nêu trên của bị cáo, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử đối với bị cáo Phạm Hữu S, về tội “Mua bán hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.
[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Hữu S là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và chế độ độc quyền của nhà nước trong việc quản lý hàng cấm, gây tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng với động cơ tư lợi bất chính vẫn bất chấp sự nghiêm cấm của Nhà nước để cố ý phạm tội, thể hiện thái độ xem thường pháp luật.
[3]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Phạm Hữu S làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn và hợp lệ theo quy định tại các Điều 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; nên về hình thức được chấp nhận để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung kháng cáo: Xét, khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết: bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có hoàn ảnh kinh tế khó khăn, có em gái là người khuyết tật - để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xét, lý do bị cáo S nêu ra để xin giảm nhẹ hình phạt về hoàn cảnh gia đình và bị cáo là lao động chính đã được cấp sơ nhận định áp dụng; và tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã nộp lại tiền thu lợi bất chính, là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được áp dụng khi quyết định hình phạt.
Xét về tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Hữu S mức án 05 năm tù (ở mức khởi điểm của khung hình phạt bị áp dụng: từ 05 năm đến 10 năm tù), là thỏa đáng không nặng, mới đủ tác dụng để giáo dục, răn đe bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Ngoài ra, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp không có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 để được xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để đượ xem xét. Do đó, kháng áo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Hữu S là không có cơ sở để được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4]. Lập luận nêu trên cùng là căn cứ để chấp nhận quan điểm giải quyết vụ án và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; chấp nhận và không chấp nhận quan điểm bào chữa của luật sư bào chữa cho bị cáo về tình tiết giảm nhẹ và hình phạt.
[5]. Về án phí: Do yêu cầu kháng áo không được chấp nhận nên ăn ứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
[6]. Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hữu S; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 189/2023/HS-ST ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm hình sự của bị cáo.
2. Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Phạm Hữu S 05 (năm) năm tù, về tội: “Mua bán hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án (được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 28/4/2022 đến ngày 14/12/2022).
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Buộc bị cáo Phạm Hữu S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Nộp tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán hàng cấm số 35/2024/HS-PT
Số hiệu: | 35/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về