TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 90/2023/HS-ST NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 41/2023/QĐST-HS ngày 29/11/2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lê Thị P, sinh năm 1977; tại: tỉnh Đắk Nông; nơi đăng ký NKTT: thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T (đã chết) và bà Đinh Thị L (đã chết); bị cáo có chồng là Nguyễn Minh T1, sinh năm 1977 (đã ly hôn), bị cáo có 04 người con, con lớn sinh năm 2008 con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Biện pháp ngăn chặn được áp dụng: bị bắt tạm giữ từ ngày 11/9/2023 đến ngày 17/9/2023, được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày khởi tố cho đến nay; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Châu Thị L1, sinh năm 1977; tại: thành phố Đà Nẵng; tên gọi khác: Không; nơi đăng ký NKTT: Thôn D, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở trước khi phạm tội: Tổ dân phố E, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Châu Ngọc V (đã chết) và bà Ngô Thị P1, sinh năm 1948; trú tại Thôn D, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo có chồng là Đỗ Văn C, sinh năm 1988, trú tại thôn B, xã Q, huyện T, tỉnh Đắk Nông, bị cáo có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1995 con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Biện pháp ngăn chặn được áp dụng: bị bắt tạm giam từ ngày 18/10/2023 hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đinh Thị H, sinh năm 1975; địa chỉ: Số A P, tổ dân phố I, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
2. Ông Trần Đức T2, sinh năm 1978; địa chỉ: tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn S, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
4. Ông Lê Quốc H1, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Thị P (sinh năm 1977, trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) là chủ quán nước giải khát tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Quá trình mở quán nước, P có quen biết với một số gái bán dâm trên địa bàn huyện Đ, tỉnh Đắk Nông và khi có khách cần mua dâm thì P sẽ giới thiệu, sau mỗi lần bán dâm, gái bán dâm sẽ trả công cho P 50.000 đồng.
Vào khoảng 19 giờ ngày 10/9/2023, Lê Quốc H1 (sinh năm 1978, trú tại thôn D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) và Nguyễn Quang Đ (sinh năm 1990, trú tại thôn S, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) đến gặp P tại quán nước và nói P gọi cho 02 gái bán dâm thì P đồng ý, P nhắn tin qua tài khoản Zalo cho Phạm Thị Hồng Y (sinh năm 1987, trú tại TDP I, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) và Nguyễn Thị N (sinh năm 1983, trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) nói đi bán dâm nhưng Y và N không đồng ý. P tiếp tục gọi điện thoại cho Châu Thị L1 (sinh năm 1977, trú tại thôn D, xã H, TP ., tỉnh Đắk Lắk; tạm trú TDP 05, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) nói xuống quán có khách mua dâm thì L1 đồng ý.
Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Châu Thị L1 đến quán thì P đưa số điện thoại 0911117X của khách mua dâm để L1 liên lạc bán dâm, L1 gọi vào số điện thoại 0911117X thì được Lê Quốc H1 nói đến nhà nghỉ B tại TDP B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, do Nguyễn Hoài T3 (sinh năm 1974, trú tại TDP D, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông làm chủ, có đăng ký giấy phép kinh doanh số 63B8001X) và do Trần Đức T2 (sinh năm 1978, trú tại TDP B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) làm quản lý nhà nghỉ, thì Châu Thị L1 đồng ý và đón taxi đến nhà nghỉ B, đi vào quầy lễ tân xin 01 bao cao su nhãn hiệu Sure rồi gặp Lê Quốc H1 và Trần Quang Đ1. Thấy có một mình L1 đến nên Đ1 nhờ L1 gọi cho một gái bán dâm khác đến bán dâm cho Đ1 thì L1 đưa số điện thoại 0967404X của Nguyễn Thị Kim T4 (sinh năm 1979, trú tại TDP A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) cho Đ1 liên lạc. Sau đó, L1 vào phòng số 08 thỏa thuận với H1 bán dâm qua đêm là 1.200.000 đồng, H1 đồng ý và đưa thêm cho L1 100.000 đồng (tổng cộng là 1.300.000 đồng). Lúc này, Đ1 gọi điện thoại cho L1 nói số điện thoại L1 đưa không liên lạc được và xin số điện thoại gái bán dâm khác thì được L1 gửi cho số điện thoại 0862715Xcủa Đinh Thị H (sinh năm 1975, trú tại TDP 09, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông), đồng thời L1 gọi điện thoại hỏi H có đi bán dâm không thì H đồng ý. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Nguyễn Quang Đ gọi điện thoại nói Đinh Thị H đến phòng số 10 nhà nghỉ B bán dâm cho Đ thì H đồng ý, khi đến nhà nghỉ H vào quầy lễ tân xin 01 bao cao su, nhãn hiệu Condom Hualei rồi vào phòng và yêu cầu Đ đưa 500.000 đồng tiền bán dâm thì Đ đồng ý. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc Lê Quốc H1 với Châu Thị L1 đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng nghỉ số 8 và Nguyễn Quang Đ với Đinh Thị H đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng nghỉ số 10 của nhà B thì bị lực lượng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ phát hiện và bắt quả tang. Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị P và Châu Thị L1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số 88/CT – VKS(ĐM) ngày 17 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Lê Thị P và bị cáo Châu Thị L1 về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự.
Tai phiên tòa, các bi c̣ ao thừa nhận hanh vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viên kiêm sat nhân dân huyện Đắk Mil đã truy tố là đúng, không oan sai.
Kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đã giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Thị P và bị cáo Châu Thị L1 phạm tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 328, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt các bị cáo Lê Thị P và Châu Thị L1 mỗi bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên trả tự do cho bị cáo Châu Thị L1 ngay tại phiên tòa.
Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:
- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã thu giữ sau đó trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, gắn sim số 0776699X;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A55, màu xanh đen, gắn sim số 0862715X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh, gắn sim số 0911117X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 12C, màu xám, cho các chủ sở hữu hợp pháp do không liên quan đến hành vi phạm tội.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1.800.000 đồng tiền Ngân hàng N1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A20, màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu, màu vàng, do liên quan đến hành vi phạm tội.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei chưa qua sử dụng; 02 bao cao su nhãn hiệu Happy chưa qua sử dụng; 02 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Sure; sim số 0386587X và sim số 0366671X.
- Đối với Đinh Thị H đã có hành vi bán dâm; Lê Quốc H1 và Nguyễn Quang Đ đã có hành vi mua dâm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã chuyển cho Cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.
- Đối với ông Nguyễn Hoài T3 (chủ nhà nghỉ B) và Trần Đức T2 (quản lý nhà nghỉ B) do không biết việc Lê Quốc H1, Châu Thị L1, Nguyễn Quang Đ và Đinh Thị H, thực hiện hành vi mua, bán dâm tại nhà nghỉ nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, xác định được: Vào khoảng 19 giờ ngày 10/9/2023, tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Lê Thị P đã có hành vi gọi Châu Thị L1 là gái bán dâm đến bán dâm cho Lê Quốc H1 tại phòng nghỉ số 08, nhà nghỉ B tại TDP B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, do ông Nguyễn Hoài T3 làm chủ. Sau đó, Châu Thị L1 gọi Đinh Thị H cũng là gái bán dâm đến bán dâm cho Nguyễn Quang Đ tại phòng nghỉ số A, nhà nghỉ B. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc Lê Quốc H1 với Châu Thị L1 đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng nghỉ số 08 và Nguyễn Quang Đ với Đinh Thị H đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng nghỉ số A, nhà nghỉ B thì bị lực lượng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ phát hiện và bắt quả tang, hành vi của bị cáo Lê Thị P và Châu Thị L1 đã phạm vào tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự.
Điều 328 của Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
[3]. Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn là một tệ nạn xã hội tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, hủy hoại nhân cách con người, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, phẩm giá của người phụ nữ, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống cộng đồng, ngoài ra còn là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác và làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm; do đó hành vi của hai bị cáo cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.
[4]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đã gây ra, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó cần áp dụng điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
[5]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần vi phạm pháp luật này các bị cáo không có vi phạm nào khác, các bị cáo đều đang nuôi con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mà cho các bị cáo hưởng chế định án treo dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương, gia đình cũng đảm bảo việc giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt, thể hiện sự nhân đạo nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, các bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[7]. Về xử lý vật chứng:
- Việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã thu giữ sau đó trả lại:
01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, gắn sim số 0776699X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A55, màu xanh đen, gắn sim số 0862715X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh, gắn sim số 0911117X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 12C, màu xám, cho các chủ sở hữu hợp pháp do không liên quan đến hành vi phạm tội là phù hợp nên cần chấp nhận.
- Cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1.800.000 đồng tiền Ngân hàng N1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A20, màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu, màu vàng, do liên quan đến hành vi phạm tội.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei chưa qua sử dụng; 02 bao cao su nhãn hiệu Happy chưa qua sử dụng; 02 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Sure, sim số 0386587X và sim số 0366671X.
[6]. Vấn đề khác: Đối với Đinh Thị H đã có hành vi bán dâm; Lê Quốc H1 và Nguyễn Quang Đ đã có hành vi mua dâm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã chuyển cho Cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.
Đối với ông Nguyễn Hoài T3 (chủ nhà nghỉ B) và Trần Đức T2 (quản lý nhà nghỉ B) do không biết việc Lê Quốc H1, Châu Thị L1, Nguyễn Quang Đ và Đinh Thị H, thực hiện hành vi mua, bán dâm tại nhà nghỉ nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
[7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông tại phiên tòa là có căn cứ, cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Thị P, Châu Thị L1 phạm tội “Môi giới mại dâm” Áp dụng khoản 1 Điều 328, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thị P 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Môt) năm 06 (Sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt bị cáo Châu Thị L1 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Môt) năm 06 (Sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên trả tự do cho bị cáo Châu Thị L1 ngay tại phiên tòa.
Giao bị cáo Lê Thị P cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông nơi bị cáo cư trú giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có tránh nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án.
Giao bị cáo Châu Thị L1 cho Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông nơi bị cáo cư trú giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có tránh nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án Trường hợp người chấp hành án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 và Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp phạm tội mới thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới và tổng hợp đối với hình phạt tù của bản án trước theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 Bộ luật hình sự.
2. Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã thu giữ sau đó trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, gắn sim số 0776699X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A55, màu xanh đen, gắn sim số 0862715X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh, gắn sim số 0911117X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 12C, màu xám cho các chủ sở hữu hợp pháp do không liên quan đến hành vi phạm tội.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1.800.000 đồng tiền Ngân hàng N1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A20, màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vertu, màu vàng, do liên quan đến hành vi phạm tội.
- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei chưa qua sử dụng; 02 bao cao su nhãn hiệu Happy chưa qua sử dụng; 02 bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Sure; sim số 0386587X và sim số 0366671X.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Thị P và bị cáo Châu Thị L1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án phần có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 90/2023/HS-ST về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 90/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về