TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2022/TLST-HS ngày 17/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2022/QĐXXST-HS ngày 01/4/2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị N, sinh năm 1994; Giới tính: Nữ; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Xóm 5, phường N, TP V, tỉnh N; Chỗ ở hiện tại: P3009, chung cư S đường D, phường M, quận H, thành phố H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn S – Sinh năm: 1958, con bà: Võ Thị H1 – Sinh năm: 1963; Chồng: Nguyễn Minh H2 - Sinh năm: 1991 (đã ly hôn) Có 02 con (con lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh ngày 25/8/2021). Tiền án, tiền sự: 02 Tiền án:
+ Bản án số 400/HSST ngày 14/11/2014, Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N tuyên xử 03 năm tù cho hưởng án treo, thử thách 05 năm về tội: Cướp tài sản (trị giá 1.420.000 đồng) (chưa xóa) + Bản án số 50/HSST ngày 29/3/2021, Tòa án nhân dân quận H tuyên xử 50 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy (phạm tội ngày 02/10/2020). Chưa đi chấp hành án vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Bị cáo bị bắt trong trường hợp quả tang. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
(Có mặt tại phiên tòa).
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt:
+ Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1994, HKTT và nơi ở: Tổ 4, Mễ Trì Th, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
+ Chị Nông Q A, sinh năm 2001, HKTT: Thôn Bản Tú, xã Yên C, huyện Bắc Mê, Hà Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22h55’ ngày 05/10/2021, Đội Cảnh sát Hình sự - Công an quận Nam Từ Liêm phối hợp với Công an phường M tuần tra kiểm soát trên địa bàn phường M thấy nhà nghỉ N có địa chỉ tại KĐT M – phường M – quận Nam Từ Liêm – Hà Nội mở cửa đón khách. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện 02 đôi nam nữ đang có hành vi mua bán dâm, cụ thể như sau:
+ Tại phòng 202: Nông Q A (SN: 2001, HKTT: Thôn B, xã Y, huyện B, tỉnh H) đang bán dâm cho Nguyễn Đình H (SN: 1994, HKTT và nơi ở: Tổ 4, đường M, phường M, quận N, thành phố H).
+ Tại phòng 204: Nguyễn Thị N (SN: 1994, HKTT: Xóm 5, phường N, TP V, tỉnh N) đang bán dâm cho Nguyễn Đăng H3 (SN: 1994, HKTT và nơi ở: Tổ 2, đường M, phường M, quận N, thành phố H).
Tổ công tác lập biên bản dẫn giải người liên quan và thu giữ vật chứng đưa về trụ sở làm rõ.
Vật chứng thu giữ:
+ Thu giữ của Nguyễn Đình H: 01 điện thoại Vivo màu trắng, gắn sim số 0981688X và 01 bao cao su đã qua sử dụng; (BL 33);
+ Thu giữ của Nguyễn Thị N số tiền: 5.000.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax gắn sim số 0325860X; 01 bao cao su (BL 34);
+ Thu giữ của Nông Q A số tiền: 5.000.000đ (BL 35).
Tại Cơ quan điều tra Nông Q A khai được Nguyễn Thị N môi giới bán dâm với giá 4.000.000đồng/lượt, sau khi bán dâm xong sẽ cắt cho N 1.000.000đồng phí môi giới, Q A nhận 3.000.000đ.
Quá trình điều tra xác định:
Nguyễn Đình H và Nguyễn Đăng H3 là bạn của nhau. Ngày 05/10/2021, H và H3 gặp nhau và cả hai rủ nhau đi mua dâm. H và H3 cùng sử dụng điện thoại Vivo màu trắng của H đăng nhập tài khoản Zalo “HV” để tìm gái bán dâm để mua dâm. Trên ứng dụng Zalo, H và H3 thấy hình ảnh trên Zalo tài khoản “NĐ” có nhiều hình ảnh gợi cảm nên đã gọi để rủ “NĐ” bán dâm cho H và H3 nhưng “NĐ” không bán dâm mà gửi ảnh của S (N) và Q (Q A) để giới thiệu cho H và H3 mua dâm. H3 chọn mua dâm N, H mua dâm Q A. Thỏa thuận giá bán dâm là 4.000.000đ/01 lần bán dâm và nếu đi ăn trước khi mua dâm thì khách phải trả thêm 1.000.000đ/người.
Nguyễn Thị N và Nông Q A là thành viên trong nhóm zalo “HN” (nhóm này lập ra để các thành viên trong nhóm có thể gọi kèo đi khách). Ngày 05/10/2021, “NĐ” nhắn tin cho Nguyễn Thị N qua tài khoản zalo “S” của N với nội dung: có hai khách nam muốn mua dâm với giá 4.000.000 và đ/01 lần mua dâm. “NĐ” cắt lại 1.000.000đồng/khách (của N) và bảo N tìm thêm một bạn nữ nữa đi bán dâm cho khách, N đồng ý. Sau đó, Nguyễn Thị N nhắn tin đến tài khoản zalo “QBB” của Nông Q A để rủ Q A đi bán dâm cho khách với giá bán dâm là 4.000.000đ/lượt, N sẽ cắt lại 1.000.000đồng tiền môi giới, Q A đồng ý nên N đã gửi ảnh của Q A cho “NĐ” để “NĐ” gửi cho khách mua dâm.
Đến khoảng 19h00’ cùng ngày, H3 và H sử dụng số điện thoại 0981688X gọi đến số điện thoại 0325860X của N (do “NĐ” cho số) để rủ N và Q A đi ăn tối cùng nhau sau đó mua bán dâm. N đồng ý và báo lại cho Q A. Q A đi taxi đến quán lẩu tại địa chỉ số 24 phố M, phường M, quận N, thành phố H trước, N đi xe ôm đến sau. Khi đến nơi, N thấy Q A đang ngồi ăn lẩu cùng H và H3. Trong lúc ăn hai bên thỏa thuận, N sẽ bán dâm cho H3, Q A bán dâm cho H. Sau khi ăn xong, H đưa cho N và Q A mỗi người 5.000.000đ (trong đó, 4.000.000đ là tiền bán dâm, và 1.000.000đ là tiền ngồi ăn với khách) sau khi ăn xong cả bốn người cùng đi taxi đến nhà nghỉ N, (KĐT M, phường M, Nam Từ Liêm, Hà Nội) do ông Vũ Hồng T (sinh năm: 1985 – NKTT: xã T, huyện L, tỉnh B) làm chủ để mua bán dâm. Nguyễn Thị N và Nguyễn Đăng H3 thuê phòng 204, Nguyễn Đình H và Nông Q A thuê phòng 202. Khi đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị tổ công tác Công an quận Nam Từ Liêm tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện, lập biên bản đưa người cùng vật chứng liên quan về trụ sở công an để làm việc.
Ngày 14/12/2021, Công an quận Nam Từ Liêm ra quyết định xử phạt hành chính số 595; 599 đối với Nông Q A và Nguyễn Thị N về hành vi “Bán dâm” mức phạt là 200.000 đồng; Quyết định xử phạt hành chính số 596, 597 ngày 14/12/2021 đối với Nguyễn Đình H, Nguyễn Đăng H3 về hành vi “Mua dâm”, mức phạt là 750.000 đồng; Ngày 31/12/2021, UBND quận Nam Từ Liêm ra Quyết định xử phạt hành chính số 4348 xử phạt ông Vũ Hồng T về hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua bán dâm tại cơ sở do mình quản lý (theo quy định tại khoản 1 Điều 25, Nghị định 167/2013 NĐ–CP) mức phạt 17.500.000đồng.
Về đối tượng “NĐ”, tại cơ quan điều tra N, H, H3 đều khai quen qua ứng dụng zalo và không biết nhân thân, lai lịch của người này. Ngày 05/11/2021, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm có Công văn số 2456 gửi Công ty cổ phần V về việc xác minh tài khoản zalo “NĐ”. Công ty cổ phần V đã thực hiện việc rà soát thông tin tuy nhiên không có dữ liệu do tài khoản không tồn tại. Do chưa xác định được đối tượng “NĐ” nên Cơ quan CSĐT không có căn cứ để xử lý.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thị N khai nhận hành vi của như đã nêu trên và khai nhận: N và Q A đang bán dâm thì bị bắt quả tang nên N chưa trả 1.000.000đ tiền môi giới cho “NĐ” và chưa nhận 1.000.000đ tiền môi giới cho Q A bán dâm.
Tại bản cáo trạng số 52/CT - VKS ngày 28/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Nguyễn Thị N bị truy tố về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm g khoản 2 Điều 328 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị N khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Nguyễn Thị N đã phạm tội “Môi giới mại dâm”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 328 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm g khoản 2 Điều 328, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị N mức án từ 40 tháng đến 44 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án số 50/2021 ngày 29/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt bị cáo 50 (Năm mươi) tháng tù về tội “Mua bán mại dâm”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là từ 90 tháng đến 94 tháng tù giam.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Xử lý vật chứng:
+ Tịch thu 01 điện thoại Vivo màu trắng, gắn sim 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax gắn 01 sim;
+ Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su (đã qua sử dụng);
+ Tịch thu sung quỹ nhà4 nước số tiền: 10.000.000đ.
Lời nói sau cùng bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 23h00’ ngày 05/10/2021, tại khách sạn N, (đường M, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Nguyễn Thị N đã có hành vi dẫn dắt để cho Nông Q A bán dâm cho Nguyễn Đình H với giá 4.000.000đ/lượt. N thu lợi số tiền 1.000.000đ.
Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” được qui định tại Điều 328 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 01 bản án chưa được xóa án tích, 01 bản án chưa được thi hành, trong thời gian đợi thi hành án đã tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm nên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 328 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, xâm phạm đạo đức xã hội.
Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai nhận tội để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[4] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm là: 01 điện thoại Vivo màu trắng, gắn sim 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax gắn 01 sim, số tiền 10.000.000 đồng liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước. 02 bao cao su đã qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm g, Khoản 2 Điều 328; Điều 38; Điều 56; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội “Môi giới mại dâm”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 03 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án số 50/HSST ngày 29/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt bị cáo 50 (Năm mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 07 năm 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/10/2020 đến ngày 12/10/2020.
Xử lý vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng.
+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại Vivo màu trắng, gắn 01 sim số 0981688X; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax gắn 01 sim số 0325860X; số tiền 10.000.000 đồng.
(Các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 109 ngày 15/3/2022 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 30/11/2021) Bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Bản án 56/2022/HS-ST về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 56/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về