Bản án về tội môi giới mại dâm số 51/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 51/2020/HS-PT NGÀY 21/04/2020 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 21/4/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/TLPT-HS ngày 21/01/2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị H2 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 106/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Thị H2, Sinh năm: 1984. Tên gọi khác: Không. ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Phúc Thắng, xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 4/12; Con ông: Nguyễn Tiến Thật, sinh năm: 1954 (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị Thơm, sinh năm: 1956; Bị cáo có 5 anh, em, bản thân là thứ tư; Chồng: Ngô Văn Hợp, sinh năm: 1978. Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm: 2010.

Tiền sự: Ngày 11/01/2019, bị công an thành phố Bắc Giang xử phạt hành chính phạt tiền 200.000 đồng về hành vi bán dâm tại quyết định số 41 ngày 11/01/2019. Đã chấp hành xong.

Tiền án: không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/9/2019 đến ngày 25/9/2019. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Luật sư bào chữa cho bị cáo ông Triệu Hạnh H4, luật sư Văn phòng luật sư Triệu H4 (vắng mặt khi tuyên án).

Vụ án có 2 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 22/9/2019, Công an huyện Lạng Giang bắt quả tang tại nhà nghỉ Suối Ngọc ở thôn Chùa, xã Thái Đào, huyện Lạng Giang có 02 đôi nam nữ đang có hành vi mua bán dâm, cụ thể:

Tại phòng 202, gái bán dâm là Nguyễn Thị H2, sinh năm 1984 ở thôn Phúc Thắng, xã Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang và người mua dâm tự khai là Nguyễn Văn T1, sinh năm 1984 ở thôn 2, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang;

Tại phòng 203, gái bán dâm là Mạc Thị H3, sinh năm 1988 ở thôn 3, xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương và người mua dâm tự khai là Hoàng Văn Minh, sinh năm 1983 ở thôn 3, xã Xương Lâm, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang;

Vật chứng thu giữ: Tại phòng 202 gồm: số tiền 1.100.000đ trên mặt bàn; 01 bao cao su nhãn hiệu Doctor chưa qua sử dụng, có vỏ màu trắng; 01 bao cao su chưa qua sử dụng nhãn hiệu Vip, có vỏ màu trắng bạc; 01 điện thoại NOKIA màu đen, 01 điện thoại SAMSUNG màu vàng của H2; 01 điện thoại nhãn hiệu MASSTER màu trắng đỏ và 50.000 đồng của T1; tại phòng 203 gồm: 01 bao cao su đã qua sử dụng, vỏ bao màu trắng nhãn hiệu Vip Plus; 01 điện thoại IPHONE màu hồng, 01 ví da màu xanh bên trong có 500.000đ và 04 bao cao su chưa qua sử dụng nhãn hiệu AMOR của H3; thu tại khu để xe tầng 1 nhà nghỉ: 01 xe mô tô 98D1-493.xx của H2; 01 xe mô tô 34B2- 937.xx của H3.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị H2 khai nhận: H2 làm nhân viên ở các quán cà phê gần khu vực nhà máy phân đạm Bắc Giang, hiện thuê phòng trọ ở số nhà 14, ngõ 29, đường Giáp Hải, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang. Trong thời gian đi làm H2 quen biết người thanh niên tự giới thiệu tên là Nguyễn Văn T1, sinh năm 1984 ở thôn 2, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam. Khoảng 16 giờ ngày 21/9/2019, T1 gọi điện bảo trưa ngày 22/9/2019 có bạn là Hoàng Văn Minh, sinh năm 1983 ở thôn 3, xã Xương Lâm, huyện Lạng Giang ở Lạng Sơn về, xem có bạn nào rủ đi cùng, H2 bán dâm cho T1 còn bạn H2 bán dâm cho Minh, T1 sẽ trả mỗi người 500.000đ, H2 đồng ý. Khoảng 09 giờ ngày 22/9/2019, H2 gặp Mạc Thị H3 là bạn ở cùng khu trọ, H2 bảo H3 có khách hỏi mua dâm giá 500.000đ/01 lần thì H3 đồng ý. Sau đó H3 cho H2 số điện thoại của H3 để khi nào khách gọi thì H2 gọi cho H3 về đi bán dâm. Khoảng 11 giờ ngày 22/9/2019, T1 gọi cho H2 hẹn 12 giờ 30 phút có mặt tại nhà nghỉ Suối Ngọc ở thôn Chùa, xã Thái Đào, huyện Lạng Giang. H2 lấy điện thoại NOKIA gọi vào điện thoại IPHONE của H3 bảo H3 về phòng trọ đi cùng H2 bán dâm cho khách, H3 đồng ý. Sau đó H2 đi xe mô tô 98D1-493.xx, H3 đi xe mô tô 34B2- 937.xx đến nhà nghỉ Suối Ngọc. H2 thuê phòng 202 và 203 thì thấy T1 và Minh đến. T1 đưa cho H2 1.100.000đ để H2 trả H3 500.000đ, H2 được 600.000đ trong đó có 100.000đ là tiền T1 trả công H2 môi giới H3 bán dâm. Sau đó, H2 bảo H3 vào phòng 203 để bán dâm cho Minh, còn H2 và T1 vào phòng 202. Khoảng 13 giờ 30 phút khi H2 đang bán dâm cho T1, H3 bán dâm cho Minh thì bị bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 115/KSĐT ngày 18/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã truy tố Nguyễn Thị H2 về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 điều 328 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung 2017.

Với nội dung như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H2 phạm tội "Môi giới mại dâm”. Căn cứ khoản 1 điều 328, Điểm i, s khoản 1 điều 51; Điều 38; Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung. Căn cứ điều 3, điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Căn cứ khoản 2 điều 106; điều 135, điều 136, điều 331, điều 332, điều 333, điều 336, điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H2 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ số ngày tạm giữ từ ngày 22/9/2019 đến ngày 25/9/2019 vào thời gian thụ hình.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Án xử xong, ngày 06/12/2019, bị cáo Nguyễn Thị H2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữa nguyên yêu cầu kháng cáo. Lý do: án sơ thẩm xử nặng, gia đình khó khăn, chồng tai nạn, con nhỏ, bố mẹ già là lao động chính.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo đã đề nghị HĐXX: căn cứ khoản 1 Điều 355, 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Căn cứ khoản 1 Điều 328; điểm e, s Điều 38 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H2 6 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tam giữ từ ngày 22/9/2019 đến 25/9/2019.

Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải chịu án phí theo quy định. Luật sư bảo vệ cho bị cáo: Có quan điểm bào chữa Thứ nhất: Cơ quan điều tra vi phạm tố tụng, kiểm tra hành chính không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự pháp luật.

Thứ hai: Bắt người trái pháp luật. Hành vi quan hệ tình dục mua bán dâm không phải hành vi phạm tội theo bộ luật hình sự.

Thứ ba: Xử lý vật chứng trái pháp luật, Công an thu của H2 2 triệu đồng để đảm bảo trả lại vật chứng là trái với quy định tại Điều 106 BLTTHS, niêm phong vật chứng không đầy đủ.

Thứ tư: Có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, không truy tìm hai người T1 và Minh.

Thứ năm: Không tiến hành đối chất theo quy định tại Điều 189 BLTTHS. Thứ sáu: Bản án sơ thẩm nhận định không khách quan, không đúng sự thật. Thứ bảy: Tòa án nhận định H2 được hưởng lợi 100.000 nghìn đồng T1 trả tiền môi giới là không đúng.

Hành vi phạm tội của bị cáo chỉ là thứ yếu, T1 mới là vai trò chính đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: đơn kháng cáo của bị cáo đã được làm trong thời gian kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị H2 thì thấy:

Buổi trưa ngày 21/9/2019, Nguyễn Thị H2 được một người tên Nguyễn Văn T1 đặt vấn đề hỏi mua dâm, T1 yêu cầu hai nhân viên nữ cho T1 và một người bạn mua dâm với giá 500.000 đồng/01 người, nên H2 đã đồng ý. Sau đó, H2 đã rủ Mạc Thị H3 là người sống ở cùng khu trọ với H2 cùng đi bán dâm cho khách và H3 đồng ý. Trưa ngày 22/9/2019, T1 gọi điện thoại cho H2 bảo đi, sau đó H2 gọi điện thoại cho H3 rồi H3 và H2 đi xe mô tô đến nhà nghỉ Suối Ngọc, tại thôn Chùa, xã Thái Đào, huyện Lạng Giang để gặp khách. Khi lên đến nhà nghỉ H2 đặt hai phòng nghỉ (phòng 202, 203), T1 đưa cho H2 1.100.000 đồng, trong đó có một 1.000.000 đồng tiền công H2 và H3 bán dâm và 100.000 đồng T1 trả cho H2 tiền công môi giới. T1 và H2 đi lên phòng 202, còn H3 và người khách bạn T1 (khai tên Minh) lên phòng 203, khi H2 đang bán dâm cho T1, H3 đang bán dâm cho Minh thì bị công an huyện Lạng Giang bắt quả tang.

Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 điều 328 BLHS, án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo như vậy là đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị H2 thấy:

Án sơ thẩm căn cứ tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ nhân thân xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H2 6 tháng tù là có căn cứ đúng pháp luật, bởi lẽ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội và bất bình trong quần chúng nhân dân, làm tổn hại đến thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội, hạnh phúc gia đình, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và căn bệnh hiểm nghèo HIV, mặt khác bị cáo đã có tiền sự, ngày 11/1/2019 đã bị Công an thành phố Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi bán dâm qua đó cho thấy bị cáo là người không chịu lao động, rèn luyện, việc phạt tù giam với bị cáo là cần thiết, án sơ thẩm phạt bị cáo mức khởi điểm của khung hình phạt là đã xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin giảm án treo nhưng không đưa ra được những căn cứ tình tiết giảm nhẹ mới nên HĐXX phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo cần giữ nguyên mức hình phạt như án sơ thẩm đã tuyên.

Tại phiên tòa luật sư bào chữ cho bị cáo đưa ra luận cứ bào chữa cho rằng quá trình điều tra truy tố xét xử cấp sơ thẩm có nhiều thiếu sót vi phạm thủ tục tố tụng, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, bản án sơ thẩm nhận định không đúng, trong vụ án T1 mới là vai trò chính. Những ý kiến của luật sư đưa ra đã được kiểm sát viên đối đáp, làm rõ, HĐXX thấy không có căn cứ chấp nhận ý kiến của luật sư.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.

Vì lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị H2 .

Căn cứ khoản 1 điều 328, Điểm i, s khoản 1 điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015.

Căn cứ điều 3, điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[1] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H2 06 (sáu) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ số ngày tạm giữ từ ngày 22/9/2019 đến ngày 25/9/2019 vào thời gian thụ hình.

[2] Về án phí phúc thẩm:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 51/2020/HS-PT

Số hiệu:51/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;