TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 28/04/2023 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 28 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 112/2022/TLST- HS ngày 02 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:
Dƣơng Mạnh C, sinh năm 1992, tại tỉnh Thái Nguyên; nơi ĐKHKTT: Xóm Tr, xã L, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 2, phường Nghĩa T, thành phố G, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn H và con bà Lê Thị L; có vợ là Bùi Thị Ngọc Q và 02 con; Tiền sự: Quyết định số 855/QĐ-TA ngày 11/11/2019 của Toà án nhân dân quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, thời hạn 15 tháng, ngày 28/10/2020, chấp hành xong (Chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính); nhân thân: Bản án số 36/2013/HSST ngày 15/4/2013 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, tuyên phạt 03 tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” ngày 24/9/2013 chấp hành xong hình phạt (Đã xóa án tích); Bản án số 76/2017/HSST ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, tuyên phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ngày 07/4/2018 chấp hành xong hình phạt (Đã xóa án tích); bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày từ ngày 25/8/2022 đến ngày 29/11/2022; đang tại ngoại ; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Nguyễn Đức Tr; cư trú: Khu phố Yên Bình, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
2. Chị Bùi Thị Ngọc Q; cư trú; Tổ dân phố 2, phường Nghĩa Tân, thành phố G, tỉnh Đ; vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác: Những người làm chứng:
1. Chị Lê Thị Kim D, chị Lê Thị Minh Ch; cư trú; Tổ dân phố 1, phường Nghĩa Thành, thành phố G, tỉnh Đ; vắng mặt
2. Anh Đàm Tiến H; cư trú; Tổ 3, phường Nghĩa Tr, thành phố G, tỉnh Đ; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 24/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố G phối hợp với Công an phường Nghĩa Tân và Nghĩa Tr kiểm tra lưu trú, phát hiện Nguyễn Đức Tr và Lê Thị Kim D đang có hành vi mua bán dâm tại phòng số 102 nhà nghỉ Viễn Đông thuộc tổ dân phố 4, phường Nghĩa Tr, thành phố G; Đàm Tiến H và Lê Thị Minh Ch đang có hành vi mua bán dâm tại phòng số 214 khách sạn Ngọc Thưởng thuộc tổ dân phố 2, phường Nghĩa Tân; thành phố G.
Kết quả điều tra xác định: Dương Mạnh C là đối tượng thường xuyên điều động, sắp xếp các nhân viên nữ phục vụ tại các quán karaoke và quán nhậu trên địa bàn thành phố G khi quán có yêu cầu. Quá trình làm việc, C và Lê Thị Kim D, Lê Thị Minh Ch thỏa thuận nếu có khách muốn mua dâm thì C sẽ nhận yêu cầu từ khách rồi thông báo cho D, Ch biết. C trực tiếp thỏa thuận giá bán dâm với khách từ 2.300.000đ-2.500.000đ/1 lần bán dâm hoặc từ 4.000.000 đồng - 5.000.000 đồng nếu bán dâm qua đêm. Sau khi thỏa thuận với khách xong, Cường sẽ chở D và Ch đến địa điểm mua dâm mà khách chỉ định rồi lấy tiền mua dâm của khách, sau khi bán dâm xong C sẽ chở Ch và D về; mỗi lần bán dâm như vậy C sẽ đưa cho Ch và D số tiền 1.800.000đ, số tiền còn lại C được hưởng. Vào ngày 24/8/2022, C đã hai lần làm trung gian, dẫn dắt Châu, Dung bán dâm, cụ thể:
Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 24/8/2022, Nguyễn Đức Tr gọi điện thoại cho C nhờ C tìm người bán dâm thì C đồng ý. Sau đó, C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 48D1-361.47 (Xe của chị Bùi Thị Ngọc Q) đến phòng trọ của D tại tổ dân phố 2, phường Nghĩa Thành, thành phố G. Gặp D, C hỏi “Có kèo, em đi không?” (ý nói có khách hỏi mua dâm, D có đồng ý bán dâm không?) thì D đồng ý. Sau đó C gọi điện thoại lại cho Tr thỏa thuận giá mua bán dâm là 2.300.000 đồng. Thỏa thuận xong, C điều khiển xe mô tô chở D đến nhà nghỉ Viễn Đông. Tại đây, Tr đưa cho C số tiền 2.500.000đồng, do không có tiền trả lại nên C nói sẽ đưa lại cho Tr 200.000 đồng khi đến đón D thì Tr đồng ý. Sau đó, Tr dẫn D lên phòng số 102, khi D và Tr đang quan hệ tình dục thì Công an thành phố G phát hiện.
Khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, trong khi C đang điều khiển xe về phòng trọ thì Đàm Tiến H gọi điện thoại nhờ C tìm người bán dâm thì C đồng ý và thỏa thuận với H giá mua bán dâm là 2.300.000 đồng. Sau đó, C điều khiển xe đến phòng trọ của Ch tại tổ dân phố 2, phường Nghĩa Thành, thành phố G. Lúc này, C hỏi Ch có đi bán dâm không thì Ch đồng ý. C điều khiển xe mô tô chở Ch đến khách sạn Ngọc Thưởng. Tại đây, H đưa cho C số tiền 2.300.000 đồng rồi dẫn Ch lên phòng số 214, khi H và Ch đang quan hệ tình dục thì Công an thành phố G phát hiện.
Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 30/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Đ truy tố bị cáo Dương Mạnh C về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Dương Mạnh C khai nhận hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân thành phố G truy tố bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” là đúng người, đúng tội và không oan.
Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G giữ nguyên quyết định truy tố; sau khi phân tích nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Dương Mạnh C phạm tội “Môi giới mại dâm”; căn cứ điểm d khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Dương Mạnh C từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su và 02 vỏ bao cao su; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 4.600.000đ do phạm tội mà có và 01 Điện thoại di động là phương tiện dùng vào việc phạm tội.
Chấp nhận Công an thành phố G trả lại số tiền 200.000 đồng cho anh Nguyễn Đức Tr; trả 01 xe mô tô BKS: 48D1-361.47 cho chị Bùi Thị Ngọc Q.
Bị cáo không trình bày lời bào chữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nh hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Ngày 24/8/2022, Dương Mạnh C 02 lần môi giới cho Lê Thị Kim D, Lê Thị Minh Ch thực hiện hành vi bán dâm cho Nguyễn Đức Tr, Đàm Tiến H. Thu lợi bất chính số tiền 4.600.000đ. Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Dương Mạnh C phạm tội “Môi giới mại dâm”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.
Điểm d khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự quy định.
1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
… d) Phạm tội 02 lần trở lên;
[3] Nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng đến nền văn hóa, lối sống văn minh, lành mạnh đồng thời là nguyên nhân phát sinh nhiều bệnh dịch truyền nhiễm, trong đó có HIV/AIDS... Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thì mới có đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nh quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Đối với hành vi bán dâm của Lê Thị Kim D, Lê Thị Minh Ch và hành vi mua dâm của Đàm Tiến H, Nguyễn Đức Tr, Công an thành phố G xử phạt vi phạm hành chính đúng quy định.
[7] Đối với hành vi Bùi Thị Ngọc Q nhận số tiền 4.600.000 đồng từ Dương Mạnh C, do Q không biết nguồn gốc số tiền này và không có hành vi khác giúp sức cho Cường nên không đề cập xử lý là có căn cứ.
[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với 02 bao cao su và 02 vỏ bao cao su xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Số tiền 4.600.000 đồng dùng vào mua bán dâm nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với 01 Điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG là phương tiện dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Công an thành phố G trả lại số tiền 200.000 đồng, cho anh Nguyễn Đức Tr; trả trả 01 xe mô tô BKS 48D1-361.47, cho chị Bùi Thị Ngọc Q, là có căn cứ.
[9] Xét các chứng cứ buộc tội và quan điểm xử lý của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo, là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:
1. Tuyên bố bị cáo Dương Mạnh C phạm tội “Môi giới mại dâm”.
2. Xử phạt: Bị cáo Dương Mạnh C 03 năm 06 tháng tù; được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/8/2022 đến ngày 29/11/2022. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án .
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su và 02 vỏ bao cao su. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 4.600.000 đồng; 01 Điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG (Vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/12/2022) Chấp nhận Công an thành phố G trả lại số tiền 200.000 đồng, cho anh Nguyễn Đức Tr; trả trả 01 xe mô tô BKS 48D1-361.47 cho chị Bùi Thị Ngọc Q.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Dương Mạnh C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án về tội môi giới mại dâm số 33/2023/HS-ST
Số hiệu: | 33/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về