TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 316/2020/HSST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 01tháng 12 năm 2020,tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩmthụ lý số 308/2020/TLST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 333/2020/QĐXXST- HS ngày 18/11/2020đối với bị cáo:
HOÀNG THỊ C, sinh năm 1992,tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT: Khu phố 5 phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Minh X và bà Trần Thị L1; Có 01 con sinh năm 2014; TATS: Không. Danh bản, chỉ bản số 326 do Công an quận Cầu Giấy lập ngày 23/5/2020.Bị can bị bắt khẩn cấpngày 23/5/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 01 – Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Lê Anh T, sinh năm 1996. Vắng mặt. HKTT: số 159 đường H, T, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
2. Anh Hoàng Quang M, sinh năm 2001. Vắng mặt HKTT: Số B29 ngõ 144 M1, phường M1, Cầu Giấy, Hà Nội.
3. Chị Lưu Thị N, sinh năm 2001. Vắng mặt. HKTT: tổ 6 phường V, Đ, Hải Phòng.
4. Nguyễn Thị Ánh N1, sinh năm 1999. Vắng mặt HKTT: P1, P2, Phú Xuyên, Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 22/05/2020, tổ công tác - Công an phường Quan Hoa- Công an quận Cầu Giấytiến hành kiểm tra hành chính tại Khách sạn Công Vinh (địa chỉ: Số 29 Quan Hoa, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội) phát hiện bắt quả tang Lê Anh T (sinh năm 1996, HKTT: số 159 đường H, T, Nam Từ Liêm, Hà Nội) đang quan hệ tình dục với Lưu Thị N (sinh năm 2001, HKTT: tổ 06 phường V, Đ, Hải Phòng) tại phòng 601 và Hoàng Quang M (sinh năm: 2001; HKTT: ngõ 144 M1, Cầu Giấy, Hà Nội) chuẩn bị quan hệ tình dục với Nguyễn Thị Ánh N1 (sinh năm: 1999; HKTT: P1, P2, Phú Xuyên, Hà Nội) tại phòng 602. Tiếp tục kiểm tra phát hiện Hoàng Thị C đang đứng tại quầy lễ tân khách sạn. Tại chỗ, C khai nhận là người môi giới cho Lưu Thị N và Nguyễn Thị Ánh N1 bán dâm cho khách tại Phòng 601 và phòng 602. Cơ quan Công an đã thu giữ của Hoàng Thị C: 01 điện thoại di động Iphone 06 Plus có lắp sim số 0982367145 và 4.500.000 đồng. Thu giữ của Lê Anh T: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 05 màu đen bạc có lắp sim số 0862197840 và 1.000.000 đồng. Thu giữ của Hoàng Quang M: 02 bao cao su đã qua sử dụng và 1.000.000 đồng. Thu giữ của Lưu Thị N: 01 điện thoại di động Iphone 06 màu trắng có lắp sim số 0373925903. Thu giữ của Nguyễn Thị Ánh N1: 01 điện thoại di động Oppo có lắp sim số 0377165081 và 2.000.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở công an để làm rõ.
Ngày 23/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Thị C.
Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Thị C khai nhận: Khoảng đầu tháng 05/2020, do không có nghề nghiệp ổn định nên C đã ra Hà Nội làm gái bán dâm. Cầm sử dụng số điện thoại 0982367145 và Facebook có nick name “Băng Băng” để nhắn tin thỏa thuận việc mua bán dâm. Ngày 18/5/2020, có Facebook nick name “Đức Tam” làm quen với C (sau này tại Cơ quan Công an C biết Lê Anh T là người sử dụng Facebook “Đức Tam”). Qua nhắn tin, T biết C là gái bán dâm nên đặt vấn đề tìm cho Tuấn 02 gái bán dâm, C và T thỏa thuận giá mua dâm 3.000.000/01 lượt/01 người và hẹn chiều tối ngày 22/5/2020 Cầm sẽ đưa 02 gái bán dâm đến khách sạn Công Vinh số 29 phố Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội. Sau đó, C sử dụng số điện thoại 0982367145 gọi đến số điện thoại 0377165081 của Nguyễn Thị Ánh N1 và số điện thoại 0373925903 của Lưu Thị N gọi đi bán dâm cho khách tại khách sạn Công Vinh số 29 phố Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội với giá 3.000.000 đồng/01 lượt N và N1 đồng ý. Khoảng 19h00 ngày 22/5/2020, Cầm đi xe taxi đến đón N và N1 tại trước cửa Siêu thị Kmart đầu cầu Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội đưa đến khách sạn Công Vinh. Lúc này, T nhắn tin đã thuê phòng 601, 602. Đến khách sạn, C dẫn N và N1 lên phòng 601 gặp T và 01 nam thanh niên (sau này tại Cơ quan Công an C biết đấy là Hoàng Quang M). Tại đây, T đưa cho C 2.000.000 đồng tiền công môi giới, 500.000 đồng tiền thuê xe taxi và 2.000.000 đồng tiền công bán dâm của N, C nhận tiền và đưa 2.000.000 đồng cho N nhưng N nhờ C giữ hộ. M cũng đưa cho C 2.000.000 đồng tiền công bán dâm của N1, C nhận tiền đưa cho N rồi M và N1 đi sang phòng 602. Số tiền còn lại 1.000.000 đồng của mỗi gái bán dâm, T và M sẽ trả sau khi quan hệ tình dục xong. C đi xuống tầng 01 của khách sạn ngồi chờ N và N1. Đến khoảng 20h15 phút cùng ngày thì Công an phường Quan Hoa vào kiểm tra hành chính bắt quả tang và thu giữ tang vật như đã nêu trên.
Lê Anh T và Hoàng Quang M khai nhận: Khoảng 18h00 phút ngày 22/5/2020, T và M đang ngồi uống nước ở phố Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội thì rủ nhau đi mua dâm. Lê Anh T sử dụng Facebook nick name “Đức Tam” nhắn tin với Facebook “Băng Băng” của Hoàng Thị C thỏa thuận việc mua bán dâm với giá 3.000.000 đồng/01 lượt/01 người và tiền công môi giới là 2.000.000 đồng. T đồng ý và hẹn C chiều tối ngày 22/5/2020 đưa 02 gái bán dâm lên phòng 601 và phòng 602 khách sạn Công Vinh số 29 Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội. Tại khách sạn T và M đã đưa tiền môi giới và tiền mua dâm cho C, N, N1 như lời khai của Hoàng Thị C. Đến khoảng 20h15 phút, T và N đang quan hệ tình dục tại phòng 601 còn M và N1 chuẩn bị quan hệ tình dục tại phòng 602 thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Kết quả kiểm tra điện thoại Iphone 06 plus lắp sim số 0982367145 của Hoàng Thị C, ở phần ứng dụng Messenger Facebook thể hiện tin nhắn trao đổi về việc mua bán dâm giữa C với Lê Anh T.
Lời khai của Hoàng Thị C phù hợp với lời khai Lưu Thị N, Nguyễn Ánh N1, Hoàng Quang M, Lê Anh T và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đối với khách sạn Công Vinh có địa chỉ tại số 29 Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội - chủ khách sạn là Đoàn Văn C (SN: 1991, HKTT: xã Q, huyện Q1, Thanh Hóa). Đoàn Văn C khai: C kinh doanh khách sạn Công Vinh từ tháng 08/2019 nhưng không có giấy phép kinh doanh, không có giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. C giao cho chị Lê Thị T1 (Sinh năm: 1998; ĐKTT: Tiểu khu Vườn Đ, thị trấn nông trường M1, Sơn La) làm lễ tân để quản lý khách sạn. T1 khai:
Khoảng 19h ngày 22/5/2020, có 02 khách là Lê Anh T, Hoàng Quang M thuê 02 phòng 601, 602 để lưu trú. Việc 02 khách dẫn Lưu Thị N và Nguyễn Thị Ánh N1 nên để mua bán dâm T không biết. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy không đề cập xử lý đối với T và C. Ngày 19/10/2020, Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Đoàn Văn C về hành vi hoạt động kinh doanh ngành, nghề có điều kiện an ninh, trật tự mà không có giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định tại điểm a khoản 03 điều 11 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013: phạt tiền 10.000.000 đồng; hành vi người đứng đầu cơ sở kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý theo quy định tại khoản 01 điều 25 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013: phạt tiền: 17.500.000 đồng.
Đối với Lê Anh T, Hoàng Quang M, có hành vi mua dâm.Ngày 23/05/2020, Công an quận Cầu Giấy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định 167/2013-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với Lưu Thị N và Nguyễn Thị Ánh N1 có hành vi bán dâm. Ngày 23/05/2020, Công an quận Cầu Giấy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định 167/2013-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với các vật chứng thu giữ của Hoàng Thị C 01 điện thoại di động Iphone 06 Plus có lắp sim số 0982367145 và 4.500.000 đồng; Lê Anh T: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 05 màu đen bạc và 1.000.000 đồng; Hoàng Quang M: 02 bao cao su đã qua sử dụng và 1.000.000 đồng; Lưu Thị N 01 điện thoại di động Iphone 06 màu trắng có lắp sim số 0373925903; Nguyễn Thị Ánh N1 01 điện thoại di động Oppo có lắp sim số 0377165081 và 2.000.000 đồng. Quá trình điều tra xác định các đối tượng sử dụng dùng để thực hiện hành vi mua bán dâm.
Cáo trạng số 316/CT - VKSCG ngày04/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Hoàng Thị C về tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện VKS nhân dân quận Cầu Giấy giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị áp dụngđiểm đkhoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1 Điều 51,Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hoàng Thị C, xử phạt bị cáo C mức án từ 38 thángtù đến 42 tháng tù.
Về tang vật áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 02 bao cao su đã qua sử dụng của Hoàng Quang M và 01 bao cao su đã qua sử dụng của Lê Anh T.
- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động Iphone 06 Plus có lắp sim số 0982367145 của Hoàng Thị C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 05 màu đen bạc của Lê Anh T; 01 điện thoại di động Iphone 06 màu trắng có lắp sim số 0373925903 của Lưu Thị N; 01 điện thoại di động Oppo có lắp sim số 0377165081 của Nguyễn Ánh N1; số tiền 8.500.000 đồng là tiền thu lời bất chính.
Tại phiên toà: Bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận hành vi do mình thực hiện là phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Hoàng Thị C trình bày lời nói sau cùng: bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã ăn năn hối hận và mong muốn được sự khoan hồng để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố,hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 20giờ 15 phút ngày 22/5/2020, tại khách sạn Công Vinh (địa chỉ: Số 29 Q, phường Q, quận Cầu Giấy, Hà Nội) Hoàng Thị C đã có hành vi môi giới cho Lê Anh T mua bán dâm với Lưu Thị N tại phòng 601;Hoàng Quang M mua bán dâm với Nguyễn Thị Ánh N1 tại phòng 602 với giá 3.000.000 đồng/01 lượt/1 người. C được hưởng lợi 2.500.000 đồng tiền công môi giới.
Hành vi nêu trên của bị cáo C đãđủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tạiđiểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Nhận xét về nhân thân và lượng hình đối với bị cáo: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự ,nhận thức được hành vi môi giới mại dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị Nhà nước quy định là tội phạm và quy định hình thức xử phạt nghiêm khắc với loại tội này, nhưng vì hám lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi “ Môi giới mại dâm” nhằm thu lời bất chính . Hành vi của bị cáo phải có một mức án nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chungnên Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để đảm bảo sức răn đe phòng ngừa tội phạm và giáo dục bị cáo.
Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, đồng thời bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần phạm tội này là lần đầu nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 328 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[4] Về tang vật:
- Tịch thu tiêu hủy: 02 bao cao su đã qua sử dụng của Hoàng Quang M và 01 bao cao su đã qua sử dụng của Lê Anh T.
- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động Iphone 06 Plus có lắp sim số 0982367145 của Hoàng Thị C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 05 màu đen bạc của Lê Anh T; 01 điện thoại di động Iphone 06 màu trắng có lắp sim số 0373925903 của Lưu Thị N; 01 điện thoại di động Oppo có lắp sim số 0377165081 của Nguyễn Ánh N1 dùng để thực hiện hành vi phạm tội Tịch thu sung công quỹ số tiền 8.500.000 đồng là tiền thu lời bất chính.
[5] Về dân sự: Không
[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị C phạm tội Môi giới mại dâm
-Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự.
Xử phạt:Bị cáo Hoàng Thị C 38 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2020.
Phạt bổ sung: Không áp dụng.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy: 02 bao cao su đã qua sử dụng của Hoàng Quang M và 01 bao cao su đã qua sử dụng của Lê Anh T.
- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động Iphone 06 Plus có lắp sim số 0982367145 của Hoàng Thị C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 05 màu đen bạc của Lê Anh T; 01 điện thoại di động Iphone 06 màu trắng có lắp sim số 0373925903 của Lưu Thị N; 01 điện thoại di động Oppo có lắp sim số 0377165081 của Nguyễn Ánh N1 dùng để thực hiện hành vi phạm tội.
Tịch thu sung công quỹ số tiền 8.500.000 đồng là tiền thu lời bất chính.
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 27/GN/THA-CA ngày 06/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội và giấy nộp tiền vào kho bạc ngày 06/11/2020)
3. Về dân sự: Không.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hoàng Thị C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết
Bản án về tội môi giới mại dâm số 316/2020/HSST
Số hiệu: | 316/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về