Bản án về tội môi giới mại dâm số 29/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 29/2024/HS-ST NGÀY 20/05/2024 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 20 tháng 5 năm 2024, tại phòng xét xử - Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2024/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Đinh Thị S (tên gọi khác: H), sinh năm 1983; nơi sinh tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn Đ, xã S, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: H’Rê; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Ẻ sinh năm 1953 và con bà Đinh T hị R , sinh năm 1963; có chồng là anh Đinh Văn D, sinh năm 1978 và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2023 - có mặt.

2. Phạm Thị X, năm 1986 (tên gọi khác: M); nơi sinh tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn N, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: H’Rê; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông P hạ m Vă n H1 và bà P hạ m T hị N (cả hai đã chết); có chồng là anh P hạ m  Vă n H2 và 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2023 - có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo Đinh Thị S và P hạm T hị X : Bà M a i T hị H3 (coù ñôn xin vaéng maët) và ông Phạm Quang L (coù maët) - là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ.

Người làm chứng: Anh Hoàng Anh H4 sinh năm 1993; anh Lê Thanh H5 sinh năm 1983, chị H Lút N1 (tên gọi khác: Ú) sinh năm 1989, chị Phạm Thị X1 (tên gọi khác: T), sinh năm 1997 - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Các bị cáo Đinh T hị S và P hạ m T hị X bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng tháng 8/2023, Đinh Thị S (sinh năm 1983, HKTT: Thôn Đ, xã S, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi) đến thôn F, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thuê nhà của ông Trương X2 (sinh năm 1971) để mở quán bán nước giải khát (không đặt tên) và hoạt động mại dâm trá hình. Tại đây S thuê chị Đ inh T hị R (sinh năm 2005, HKTT: Thôn T, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đắk Nông) làm nhân viên phụ bán quán và ở tại quán. Trong thời gian ở tại đây, S quen biết với P hạ m T hị X (sinh năm 1986, HKTT: Thôn N, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi) là chủ quán cà phê mại dâm trá hình có tên “Tâm An” tại thôn F, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Q “Tâm A” được Phạm Thị X thuê của bà Dươ ng T hị T1 (sinh năm 1974) làm nơi ở, và thuê thêm chị Phạm Thị X1 (sinh năm 1997, HKTT: Thôn K, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi) làm nhân viên phụ bán quán và ở tại quán cùng với X. Tại đây, X quen biết chị H Lút N1 (sinh năm 1989, HKTT: Buôn M'Oa, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk) là chủ quán mại dâm trá hình có tên "Tình Anh” tại thôn F, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, ở liền kề với quán của X.

Đinh Thị S và Phạ m T hị X thống nhất nếu có khách đến hỏi gái mua dâm thì S hoặc X sẽ thỏa thuận giá sau đó gọi gái bán dâm đến quán để cùng khách đi đến nhà nghỉ M1. Nếu nhân viên là gái bán dâm quán của S đi xuống quán của X bán dâm, thì gái bán dâm phải đưa cho S 100.000 đồng và đưa cho X 50.000 đồng/1 lần bán dâm và ngược lại nếu nhân viên là gái bán dâm quán của X3 cũng phải trả tiền như vậy.

Vào khoảng 16 giờ ngày 20/12/2023, anh Hoàng Anh H4 (sinh năm 1993) và anh Đình Văn H6 (sinh năm 2001) cùng cư trú tại thôn T, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đắk Nông) và anh Lê Thanh H5 (sinh năm 1983) cư trú tại thôn F, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) rủ nhau đến quán của Đinh Thị S để tìm người mua bán dâm. Khi vào quán thì H4, H6 và H5 gặp S, lúc này S lấy nước ngọt, thuốc lá và bánh phồng tôm, bim bim để ra bàn cho ba người, rồi ngồi xuống cùng nói chuyện. Quá trình nói chuyện, H4 đặt vấn đề muốn gọi 02 gái bán dâm để mua dâm, thì được S đồng ý. S sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh, gắn sim số 0388.522.060 gọi cho P hạ m T hị X (X sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A16k, màu xanh, gắn sim số 0386.954.181) nói, gọi Phạm Thị X1 và H Lut N2 lên quán của S để bán dâm, thì X đồng ý. Sau khi tắt điện thoại thì X nói với X1 đang ở quán là chuẩn bị đi cùng H Lut N2 lên quán của S để bán dâm. Sau khi nói với X1 thì X gọi điện thoại cho H Lut N2 (số điện thoại 0946.235.059) nói H Lut N2 qua quán của X để chở X1 đi lên quán của Đinh Thị S bán dâm, H Lut N2 đồng ý. Khoảng 10 phút sau, H Lut N2 chở Phạm Thị X1 đến quán của S. Tại đây, H4 và H5 sau khi nói chuyện với S thì đồng ý mua dâm với H Lut N2 và X1 với giá 400.000 đồng/1 người/1 lần bán dâm. Sau khi thỏa thuận xong thì H4 lấy ra số tiền 1.500.000 đồng đưa cho S, trong đó 400.000 đồng là tiền H4 mua dâm với H Lut N2; 400.000 đồng là tiền H5 mua dâm với X1; 145.000 đồng là trả tiền nước ngọt, thuốc lá, bánh; còn 545.000 đồng là tiền H4 cho S vì đã gọi gái bán dâm đến. S cầm tiền rồi đưa cho H Lut N2 và X1 mỗi người 400.000 đồng và nói với H Lut N2 và X1 đi bán dâm cùng với H4 và H5. Sau đó, H4, H5, H Lut N2 vaø X1 cùng đi đến nhà nghỉ K tại thôn F, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để mua bám dâm. Khi H4 và H Lut N2 mua bán dâm tại phòng số 01, H5 và X1 mua bán dâm tại phòng số 03 thì bị Công an huyện Đ kiểm tra, phát hiện.

Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu;

- Thu giữ 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 bao cao su chưa qua sử dụng (nhãn hiệu FRE MEN) tại phòng số 1 và số 3 của nhà nghỉ K.

- Thu giữ của H Lut N2 số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen, bên trong gắn sim số 0946.235.059.

- Thu giữ của P hạ m T hị X1 số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh dương, bên trong gắn sim số 0899.704.998 và sim số 0336.994.057.

- Thu giữ của Đ inh T hị S số tiền 545.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh, bên trong gắn sim số 0388.522.060.

- Thu giữ của P hạ m T hị X 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A16k, màu xanh, bên trong gắn sim số 0386.954.181.

(Các điện thoại di động trên, tình trạng đều đã qua sự dụng) Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với số tiền 1.345.000 đồng, trong đó 400.000 đồng là tiền bán dâm của H Lut N2 đã nhận; 400.000 đồng là tiền bán dâm của Phạm Thị X1 đã nhận;

545.000 đồng là tiền anh Hoàng Anh H4 cho Đinh Thị S trong việc gọi gái bán dâm, đây là số tiền dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên caàn tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A16k, màu xanh, là tài sản của Đ inh T hị S và P hạ m T hị X dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, do vậy cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 bao cao su chưa qua sử dụng (nhãn hiệu FRE MEN), do không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh dương, quá trình điều tra xác định tài sản hợp pháp của H Lut N2 và P hạ m T hị X1 , không liên quan đến hành vi phạm tội, nên ngày 29/12/2023, Cơ quan caûnh saùt ñieàu tra Coâng an huyeän Ñắk R’Laáp đã xử lý bằng hình thức trả lại cho chị H Lut N2 và X1.

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT-VKS-ĐL ngày 27/3/2024, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông đã truy tố các bị cáo Đinh T hị S và P hạ m T hị X về tội: “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Đinh T hị S và P hạ m T hị X về tội: “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự. Sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đinh T hị S từ 03 năm 06 tháng tù ñeán 03 naêm 09 thaùng tuø, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt taïm giữ, tạm giam 20/12/2023.

Xử phạt bị cáo Phaïm T2 Xoù từ 03 năm tù ñeán 03 naêm 03 thaùng tuø, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt taïm giữ, tạm giam 20/12/2023.

Việc xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với số tiền 1.345.000 đồng, trong đó 400.000 đồng là tiền bán dâm của H Lut N2 đã nhận; 400.000 đồng là tiền bán dâm của Phạm Thị X1 đã nhận;

545.000 đồng là tiền anh Hoàng Anh H4 cho Đinh Thị S trong việc gọi gái bán dâm, đây là số tiền dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A16k, màu xanh, là tài sản của Đ inh T hị S và P hạ m T hị X dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, do vậy cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 bao cao su chưa qua sử dụng (nhãn hiệu FRE MEN), do không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh dương, quá trình điều tra xác định tài sản hợp pháp của H Lut N2 và P hạ m T hị X1 , không liên quan đến hành vi phạm tội, nên ngày 29/12/2023, Cơ quan caûnh saùt ñieàu tra Coâng an huyeän Ñaék R’Laáâp đã xử lý bằng hình thức trả lại cho chị H Lut N2 và chị X1.

Tại phiên toà, người bào chữa cho caùc bị cáo Đinh Thị S và P hạ m T hị X xác định: Caùc bị cáo S1 vaø Xoù ñeàu laø ngöôøi daân toäc thieåu soá, sinh soáng ôû nôi ñaëc bieät khoù khaên, trình ñoä vaên hoùa thaáp, ít hieåu bieát phaùp luaät, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, caùc bị cáo coù nhaân thaân toát, chưa có tiền án, tiền sự gì. Sau khi thöïc hieän haønh vi phaïm toäi ñaõ thaønh khaån khai baùo, aên naên hoái caûi veà haønh vi phaïm toäi cuûa mình nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điêm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo dưới khung hình phạt và cho caùc bị cáo được hưởng án treo để caùc bị cáo có cơ hội sửa chữa và sống có ích cho gia đình, xã hội.

Tai phiên toa, các bị cáo Đinh T hị S và P hạ m T hị X đã khai nhận toàn bộ hanh vi phạm tội của mình như Cao trang, thừa nhận Viên kiêm sat nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tænh Ñaék N3 truy tố về tội: “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, Toà án đã triệu tập hợp lệ những người làm chứng anh Hoàng Anh H4, anh Lê Thanh H5, chị H Lút N1 và chị P hạ m T hị X1 tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Những người này đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra được lưu trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyệ n Đ , Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp lưu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Khoảng tháng 8/2023, Đinh T hị S đến thôn F, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thuê nhà để mở quán bán nước và hoạt động mại dâm trá hình. S quen biết với Phạm Thị X là chủ quán C trá hình có tên “T”, quán do X thuê, X thuê chị Phạm Thị X1 làm nhân viên. X quen biết chị H Lút N1 là chủ quán M2 có tên "Tình A1” liền kề với quán của X.

Đinh Thị S và Phạ m T hị X thống nhất nếu có khách đến hỏi gái mua dâm thì S hoặc X sẽ thỏa thuận giá sau đó gọi gái bán dâm đến quán để cùng khách đi đến nhà nghỉ M1. Nếu nhân viên là gái bán dâm quán của S đi xuống quán của X bán dâm, thì gái bán dâm phải đưa cho S 100.000 đồng và đưa cho X 50.000 đồng/1 lần bán dâm, và ngược lại nếu nhân viên là gái bán dâm quán của X3 cũng phải trả tiền như vậy.

Vào khoảng 16 giờ ngày 20/12/2023, anh Hoàng Anh H4, anh Đ ình Vă n H6 và anh Lê Thanh H5 đến quán của Đinh Thị S để tìm người mua bán dâm. Khi vào quán thì H4, H5 vaø H6 gặp S. H4 đặt vấn đề muốn gọi 02 gái bán dâm để mua dâm, thì S đồng ý. S gọi điện thoại cho X nói, gọi P hạ m T hị X1 và H Lut N2 lên quán của S để bán dâm, thì X đồng ý. H4 và H5 nói chuyện với S thì đồng ý mua dâm với H Lut N2 và X1 với giá 400.000 đồng/1 người/1 lần. H4 ñöa cho S1 số tiền 1.500.000 đồng, trong đó 400.000 đồng là tiền H4 mua dâm với H Lut N2;

400.000 đồng là tiền H5 mua dâm với X1; 145.000 đồng là trả tiền nước ngọt, thuốc lá, bánh; còn 545.000 đồng là tiền H4 cho S vì đã gọi gái bán dâm đến. S cầm tiền rồi đưa cho H Lut N2 và Phạm Thị X1 mỗi người 400.000 đồng và nói với H Lut N2 và X1 đi bán dâm cùng với H4 và H5. Sau đó, H4, H5, H Lut N2 và X1 đến nhà nghỉ K, khi đang mua bán dâm thì bị Công an huyện Đ kiểm tra, phát hiện.

Do đó, có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Đinh T hị S và P hạ m T hị X về tội: “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.

Điều 328 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) … đ) Đối với 02 người trở lên;

…” [3]. Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến thuần phong mỹ tục, đạo đức vaø nhaân caùch con ngöôøi. Các bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật; làm mất trật tự an toàn xã hội; bị toàn xã hội lên án nhưng do ý thức coi thường pháp luật, vì mục đích để có tiền tiêu xài cá nhân nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

[4]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qúa trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo Đ inh T hị S và P hạ m T hị X đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Bò caùo Xoù coù meï baø laø Phaïm T (Phaïm Thò N) ñöôïc taëng huy chöông khaùng chieán haïng nhaát nên caùc bò caùo được áp dụng caùc tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Do Đ inh T hị S và P hạ m T hị X hiện tại chưa có tài sản, thu nhập chỉ đủ trang trải cho cuộc sống hàng ngày nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.

[6]. Việc xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; caên cöù khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình.

- Đối với số tiền 800.000 đồng, trong đó 400.000 đồng là tiền bán dâm của H Lut N2 đã nhận; 400.000 đồng là tiền bán dâm của Phạm Thị X1 đã nhận và số tiền 545.000 đồng là tiền anh Hoàng Anh H4 cho Đinh Thị S trong việc gọi gái bán dâm, đây là số tiền dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A16k, màu xanh, là tài sản của Đ inh T hị S và P hạ m T hị X dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, do vậy cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 bao cao su chưa qua sử dụng (nhãn hiệu FRE MEN), do không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh dương, quá trình điều tra xác định tài sản hợp pháp của H Lut N2 và P hạ m T hị X1 , không liên quan đến hành vi phạm tội, nên ngày 29/12/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra C ông a n huyệ n Đ đã xử lý bằng hình thức trả lại cho H Lut N2 và X1.

[7]. Tại phiên tòa, xét quan điểm bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý cho caùc bị cáo Đ inh T hị S và P hạ m T hị X , đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt caùc bị cáo dưới khung hình phạt, mieãn aùn phí và cho caùc bị cáo được hưởng án treo laø khoâng coù caên cöù chấp nhận.

[8]. Xét quan điểm và đường lối xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[9].Về án phí: Buộc các bị cáo Đ inh T hị S và P hạ m T hị X phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

2. Tuyên bố các bò caùo Đ inh T hị S và P hạ m T hị X phạm tội: “Môi giới mại dâm”.

2.1. Xử phạt bị cáo Đ inh T hị S 03 (ba) năm 06 (saùu) thaùng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/12/2023.

2.2. Xử phạt bị cáo P hạ m T hị X 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/12/2023.

3.Việc xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; caên cöù khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu của H Lut N2 soá tieàn 400.000 đồng; tòch thu của Phạm Thị X1 soá tieàn 400.000 đồng nhận (số tiền này đang gửi tại Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhá nh Đ1 - Phòng G ngày 04/3/2024); tòch thu của Đinh Thị S 545.000 đồng nhận (số tiền này đang gửi tại N gâ n hà ng TM C P Đ - Chi nhánh Đ1 - Phòng G ngày 05/3/2024) nộp vaøo ngân sách Nhà nước.

- Tòch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54, màu xanh và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, A16k, màu xanh của Đ inh T hị S và P hạ m T hị X nộp vaøo ngân sách Nhà nước (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận giữa C ông an huy ệ n Đ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông).

- Tòch thu tieâu huûy 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 bao cao su chưa qua sử dụng (nhãn hiệu FRE MEN), do không có giá trị sử dụng (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận giữa C ông an huy ệ n Đ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông).

- Chaáp nhaän ngày 29/12/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra C ô ng a n huyệ n Đ trả lại cho chị H Lut N2 và chị P Thò Xắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh dương do không liên quan đến hành vi phạm tội.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo Đ inh T hị S và P hạ m T hị X mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15(mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
  • Tên bản án:
    Bản án về tội môi giới mại dâm số 29/2024/HS-ST
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    29/2024/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    20/05/2024
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 29/2024/HS-ST

Số hiệu:29/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;