TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 28/02/2020 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Thành phố Hà Nội đã xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2020, ngày 03 tháng 02 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo: Họ và tên:
Nguyễn Thị Ph sinh năm: 1983. HKTT và chỗ ở: Thôn TT, xã LL, huyện CL, tỉnh HD. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 8/12. Con ông: Nguyễn Văn Hu, sinh năm 1955. Con bà: Phạm Thị H, sinh năm 1956. Gia đình có 2 anh chị em, bị cáo là thứ hai. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 0000000638 lập ngày 14/11/2019 tại Công an quận Long Biên và lý lịch bị can thể hiện bị cáo không có tiền án tiền sự. Bị bắt giữ ngày 30/10/2019. Hủy bỏ quyết định tạm giữ ngày 07/11/2019. Hiện bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Anh D sinh năm 1985 Trú tại: Tổ 10 phường NT, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội. ( vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14h00 ngày 30/10/2019, Nguyễn Anh D và Phạm Minh Q có nhu cầu mua dâm nên Du sử dụng số điện thoại 0902130036 gọi điện đến số điện thoại 0355123xxx của Nguyễn Thị Ph đặt vấn đề mua dâm, Du nói có bạn đi cùng và thỏa thuận 300.000 đồng/01 người/01 lượt mua dâm tại nhà nghỉ Vạn Hoa. Ph đồng ý và bảo sẽ gọi thêm bạn đến bán dâm cho bạn của Du. Sau đó Ph rủ Nguyễn Thị H đi bán dâm cùng, H đồng ý. Ph và H đi đến nhà nghỉ Vạn Hoa và đi lên phòng 223, tại đây có Du và Q, hai bên thỏa thuận tiền mua dâm của Q sẽ do Du trả, tiền bán dâm của H do Ph giữ và đưa H sau. Du và Ph thực hiện hành vi mua bán dâm ở phòng 223 còn H và Q sang phòng 226.
Tại phòng 223, Du đưa số tiền 800.000đ cho Ph để mua dâm trong đó 600.000đ là tiền trả công bán dâm cho cả Ph và H, còn lại 200.000đ là tiền Du cho thêm Ph vì đã gọi thêm H đến bán dâm cho Q. Khoảng 15h00 cùng ngày, khi Ph và H đang thực hiện hành vi bán dâm cho Du và Q thì lực lượng công an kiểm tra, lập biên bản sự việc, tạm giữ những đồ vật tài sản liên quan và đưa những người liên quan về trụ sở để làm việc.
Tang vật thu giữ:
- Của Ph: 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng; số tiền 800.000 đồng.
- Của Du: 01 điện thoại di động Nokia 1280.
- Của Q: 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Eros.
Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ph phạm tội “ Môi giới mại dâm” theo khoản 1 điều 328 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm Bị cáo Nguyễn Thị Ph khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm nhân dân quận Long Biên sau khi tóm tắt nội dung sự việc, đánh giá lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; trình bầy lời nhận tội và đề nghị như sau:
Đề nghị áp dụng khoản 1 điều 328, điểm i,s khoản 1,2 Điều 51, Điều 65 và Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt Nguyễn Thị Ph từ 8 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 đến 24 tháng.
Về xử lý vật chứng.
- Đề nghị tịch thu sung công: 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng của Nguyễn Thị Ph và 01 điện thoại di động Nokia 1280 của Nguyễn Văn Du.
- Đề nghị sung quỹ nhà nước số tiền 800.000 đồng.
Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu eros và 01 bao cao su đã qua sử dụng Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Ph sau khi nghe quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận đã có hành vi Môi giới mại dâm của mình là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luật. Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Thành phố hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên Tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Ph: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15h00 ngày 30/10/2019, tại khách sạn Vạn Hoa, địa chỉ số 128 Nguyễn Văn Cừ, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội, Nguyễn Thị Ph có hành vi môi giới để Nguyễn Thị H bán dâm cho Phạm Minh Q, Ph được hưởng lợi 200.000 đồng. Khi H và Q đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị tổ công tác Công an phường Ngọc Thụy phối hợp với Đội cảnh sát Hình sự - Công an quận Long Biên phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy bố bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến trật tự công công, từ mại dâm còn có thể nảy sinh nhiều loại tội phạm khác và gây mất trật tự trị an xã hội.
[3]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sư: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo Ph không có tiền án tiền sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm này bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo hiện đang nuôi con nhỏ luôn ốm đau bệnh tật.
Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4].Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đói với bị cáo xong cũng xét tại cơ quan điều tra cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt lần đầu bị đưa ra truy tố xét xử, có nơi cư trú rõ rằng nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo cũng có tác dụng giáo dục dăn đe bị cáo.
Về hành phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội nhất thời, thu nhập không ổn định, chưa thu lời, do vậy thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng của Nguyễn Thị Ph và 01 điện thoại di động Nokia 1280 của Nguyễn Văn Du. Đây là những chiếc điện thoại các bên liên lạc với nhau để môi giới và bán dâm do vậy thấy cần tịch thu sung công. Đối với số tiền 800.000 đồng là tiền thu lời bất chính do vậy thấy cần tịch thu sung công. Đối với 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu eros và 01 bao cao su đã qua sử dụng không có giá trị sử dụng cho tịch thu tiêu hủy.
[6].Các vấn đề khác:
Đối với việc Nguyễn Thị Ph có hành vi bán dâm cho Nguyễn Anh D, Nguyễn Thị H có hành vi bán dâm cho Phạm Minh Q, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi bán dâm đối với Nguyễn Thị Ph, Nguyễn Thị H theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 167 ngày 12/11/2013 của Chính phủ; về hành vi mua dâm đối với Phạm Minh Q, Nguyễn Anh D theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 167 ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với chủ khách sạn Vạn Hoa là chị Nguyễn Thị Tuyết, SN: 1981, HKTT: Số 128B Nguyễn Văn Cừ, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội. Ngày 30/10/2019, chị Tuyết khi thấy Du, Q, Ph, H thuê phòng 223 và 226, do nghi ngờ có hành vi mua bán dâm nên đã trình báo với cơ quan công an phát hiện, bắt giữ các đối tượng. Vì vậy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên không đặt vấn đề xử lý hình sự là có căn cứ Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ph phạm tội: “Môi giới mại dâm”.
Áp dụng Khoản 1 Điều 328; Điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 và Điều 47 của Bộ luật hình sự. Áp dụng các Điều 106, 135, 299, 326, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ph 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Ph cho Ủy ban nhân dân xã Lê Lợi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương để giám sát, giáo dục trong thời gian tử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
“Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.
Xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Ph và 01 điện thoại di động Nokia 1280 của Nguyễn Anh D.
- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu eros và 01 bao cao su đã qua sử dụng Tất cả hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng và theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 22 tháng 01 năm 2020.
Tich thu sung công quỹ nhà nước số tiền 800.000 đồng hiện đang lưu giữ Chi Cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 07/01/2020 Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về