Bản án về tội môi giới mại dâm số 11/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HS ngày 18/02/2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị S, sinh năm 1975; nơi sinh, nơi đăng ký thường trú, nơi ở: Tổ dân phố L, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị Ngh; có chồng nhưng đã chết, có 01 con sinh năm 2009; tiền sự, tiền án: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 10/11/2020 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Công Th, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 08/11/2020, tại quán nước thuộc thị trấn Phú Thái, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thị S gặp hai đối tượng tự khai là Nguyễn Văn N, sinh năm 1970 và Nguyễn Văn K, sinh năm 1981, địa chỉ: khu D, phường L, thị xã K, tỉnh Hải Dương. N và S nói chuyện, làm quen với nhau, N rủ S đi ăn trưa tại quán ăn thuộc thị trấn Phú Thái, huyện Kim Thành cùng với N và K. Trong lúc ngồi ăn cơm, N bảo S tìm hộ một người bán dâm cho N. S đồng ý và dùng điện thoại di động Nokia 1010 của S gọi vào điện thoại di động nhãn hiệu Mi của Nguyễn Thị V, sinh năm 1993, trú tại: Thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương rủ V đến nhà nghỉ H ở thôn P, xã K, huyện K để bán dâm, V đồng ý. Sau đó, N và S thỏa thuận giá một lần mua bán dâm là 300.000 đồng, N đưa cho S 500.000 đồng, bao gồm tiền 01 lần mua dâm và 200.000 đồng N cho S để trả tiền thuê phòng. Cũng tại quán ăn, K đặt vấn đề mua dâm với S và đưa cho S 300.000 đồng. Khoảng gần 12 giờ cùng ngày, S, N và K đi đến nhà nghỉ H do anh Nguyễn Công Th, sinh năm 1999 đang làm quản lý. S thuê phòng 203 và phòng 205, sau đó S vào phòng 203 để bán dâm cho K, V vào phòng 205 để bán dâm cho N. Hồi 12 giờ cùng ngày, tại phòng 203 và phòng 205, nhà nghỉ H, khi S và K đang chuẩn bị quan hệ tình dục, V và N đang quan hệ tình dục thì bị Tổ công tác thuộc công an huyện Kim Thành kiểm tra phát hiện, thu giữ tại phòng phòng 203 một bao cao su chưa qua sử dụng, thu giữ của S chiếc điện thoại di động Nokia 1010 cùng 800.000 đồng là số tiền N và K đưa cho S nêu trên; thu giữ tại phòng 205 một vỏ bao cao su và 01 một bao cao su đã qua sử dụng, thu giữ của V chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MI.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thị S khai nhận về hành vi như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 05/CT-VKS ngày 21/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị S về tội Môi giới mại dâm theo khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị S phạm tội Môi giới mại dâm. Áp dụng khoản 1 Điều 328, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị S từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 10/11/2020.

Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 800.000 đồng. Tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1010. Tịch thu cho tiêu hủy 01 bao cao su chưa sử dụng được niêm phong trong 01 phong bì; 01 bao cao đã sử dụng và 01 túi vỏ bao cao su được niêm phong trong 01 phong bì.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Thị S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị S khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Thị S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng gần 12 giờ ngày 08/11/2020, tại thị trấn Phú Thái, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thị S có hành vi gọi điện thoại dẫn dắt để cho Nguyễn Thị V và người tự khai là Nguyễn Văn N thực hiện hành vi mua bán dâm. Hồi 12 giờ cùng ngày, tại phòng 205, nhà nghỉ H thuộc thôn P, xã K, huyện K, trong khi V và N đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Tổ công tác thuộc công an huyện Kim Thành kiểm tra phát hiện.

[3] Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mỗi giới, dẫn dắt việc bán dâm là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Thị S phạm tội Môi giới mại dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị S về tội phạm trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa mới. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

[5] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về các biện pháp tư pháp: Cơ quan điều tra thu giữ số tiền 800.000 đồng do phạm tội mà có nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước. Đối với 02 bao cao su, vỏ bao cao su không có giá trị nên tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1010 sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước.

[8] Trong vụ án này, đối với Nguyễn Thị V và Nguyễn Thị S có hành vi bán dâm, ngày 28/12/2020, Công an huyện Kim Thành đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 159/QĐ-XPHC và số 160/QĐ-XPHC đối với V và S.

[9] Đối với đối tượng tự khai là Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Thành đã hành xác minh tại công an phường L nhưng không có đối tượng nào tên là N và K có nhân thân như đối tượng tự khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kim Thành tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[10] Đối với anh Nguyễn Công Th là quản lý của nhà nghỉ H, sau khi cho thuê phòng 203 và 205, anh T nghi vấn S, K, V, N có dấu hiệu mua bán dâm nên đã gọi điện và làm đơn trình báo vụ việc đến công an huyện Kim Thành. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kim Thành không đặt ra việc xử lý đối với anh T là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo bị kết luận phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 328, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị S phạm tội Môi giới mại dâm.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị S 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 10/11/2020.

3. Về các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 800.000 đồng.

- Tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1010.

- Tịch thu cho tiêu hủy: 01 bao cao su chưa sử dụng được niêm phong trong 01 phong bì; 01 bao cao đã sử dụng và 01 túi vỏ bao cao su được niêm phong trong 01 phong bì.

(Vật chứng và số tiền được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 11/2021/HS-ST

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;