Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 12/2022/HS-ST ngày 18 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Ngô Thành L, sinh ngày 23/4/2002 tại Sóc Trăng.

Nơi thường trú: Ấp P, thị trấn C, huyện C, tỉnh S.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn L và bà Bùi Thị Kiều H; Chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 22/10/2021, “có mặt tại phiên tòa”.

Bị hại:

- Bà Trần Kim Ph, sinh năm 1967 (Có mặt).

- Chị Trần Ngọc Th, sinh năm 2003 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Khu vực 2, phường H, quận C, thành phố C.

Chỗ ở hiện nay: Khu vực T, phường P, quận C, thành phố C.

- Anh Thiều Nhựt Kh, sinh ngày 05/01/2005 (Vắng mặt).

Người giám hộ: Ông Thiều Nhựt Kh, sinh năm 1980 (Vắng mặt) và bà Trần Thị Kim Ch, sinh năm 1984 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Khu vực P, phường T, quận C, thành phố C.

Là: Cha, mẹ anh Kh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Vũ Trương Tuấn Ng, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Địa chỉ: đường Trần Ngọc Q, Khu vực 4, phường X, quận N, thành phố C.

- Ông Quách Văn C, sinh năm 2000 (Vắng mặt).

Địa chỉ: đường Phạm Ngọc H, Khu vực 5, phường A, quận B, thành phố C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Thành L và Trần Ngọc Th sống chung như vợ chồng tại nhà Khu vực T, phường P, quận C, thành phố C. Do thiếu nợ và không có tiền tiêu xài cá nhân nên L nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vào ngày 28/9/2021 L hỏi mượn xe môtô biển số 65H1-264.54 của bà Trần Kim Ph (mẹ ruột Th) để đi chơi nhưng mục đích thật sự là đem đi cầm bán. Được bà Ph đồng ý, L điều khiển xe đi lòng vòng đến chiều cùng ngày thì chạy đến dịch vụ cầm đồ Tân Hưng Phát (đường T, phường X, quận N, thành phố C) cầm cố cho ông Vũ Trương Tuấn Ng với số tiền 15.000.000 đồng lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân. Sau đó, L trở về nhà bà Ph và nói dối xe đã bị giữ ở Chốt kiểm tra y tế tỉnh Hậu Giang.

Ngày 06/10/2021, L tiếp tục nói dối hỏi mượn xe môtô biển số 65B2-618.77 của Th để đi uống cà phê nên Th đồng ý, sau đó L điều khiển xe môtô chở Phạm Văn K đến Hẻm 9 đường V, phường A, quận B, thành phố C bán xe môtô này cho ông Quách Văn C với giá là 20.000.000 đồng, nhưng do chưa có giấy chứng nhận đăng ký xe nên C chỉ đưa trước cho L số tiền 12.000.000 đồng và giao kết khi có đủ giấy tờ thì sẽ đưa đủ số tiền 8.000.000 đồng còn lại. Đến ngày 20/10/2021, L đi đến dịch vụ cầm đồ Tân Hưng Phát nhận thêm số tiền 1.000.000 đồng để bán đứt xe môtô biển số 65H1-264.54 đã cầm cố trước đó.

Sau khi sự việc xảy ra, bà Trần Kim Ph và Trần Ngọc Th đã trình báo Công an giải quyết theo quy định (bút lục 01-05).

Vật chứng thu giữ: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu vàng biển số 65H1- 264.54, số máy: JF66E0211788, số khung: RLHJF5815GY211767; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 65H1-264.54; 01 hợp đồng mua bán xe 65H1-264.54;

01 Chứng minh nhân dân mang tên Ngô Thành L; 01 hợp đồng cầm cố tên Ngô Thành L; 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen biển số 65B2-618.77 số máy: JK03E0017819, số khung: RLHJK030XMY012450; 01 Căn cước công dân mang tên Ngô Thành L (bút lục 60-61).

Kết luận định giá số 75/TCKH-HĐĐG ngày 26/10/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xác định: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu vàng biển số 65H1-264.54, số máy: JF66E0211788, số khung: RLHJF5815GY211767 (đã qua sử dụng) có giá là 16.000.000 đồng (bút lục 176-177).

Kết luận định giá số 76/TCKH-HĐĐG ngày 26/10/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xác định: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen biển số 65B2-618.77 số máy: JK03E0017819, số khung: RLHJK030XMY012450 (đã qua sử dụng) có giá là 28.000.000 đồng (bút lục 178-180).

Ngoài ra, L còn thực hiện hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của anh Thiều Nhựt Kh, cụ thể như sau:

Ngô Thành L và Thiều Nhựt Kh có mâu thuẫn tình cảm nam nữ (Th là bạn gái cũ của Kh) từ trước, khoảng 21 giờ 30 ngày 04/3/2021 phát hiện Kh một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI biển số 65L1-226.46 chạy đến cây xăng Mekong thuộc khu vực 9, phường H, quận C, thành phố C đổ xăng nên L điều khiển xe môtô chở Phạm Văn K đuổi theo vào cây xăng rượt đánh Kh nhưng không đánh được (do Kh chạy thoát). Sau đó, L và K rút chìa khóa xe môtô của Kh và đi bộ ra trước chỗ cổng cây xăng để đứng, còn L một mình điều khiển xe môtô chạy về nhà trọ tại số 71/64B đường Q, phường X, quận N lấy theo một con dao tự chế, quay trở lại cây xăng Mekong dẫn xe mô tô của Kh ra phía trước cây xăng dùng dao tự chế đã mang theo chém nhiều lần làm hư hỏng nhiều bộ phận trên xe, sau đó L mang dao tự chế về phòng trọ cất giấu rồi chạy đến quán cà phê Quan Chun để uống nước.

Sau khi sự việc xảy ra, Thiều Nhựt Kh đến Cơ quan Công an trình báo để giải quyết theo quy định (bút lục 06-07).

Vật chứng thu giữ: 01 xe môtô nhãn hiệu SUZUKI biển số 65L1-226.46; 01 đoạn video có độ dài 01 phút 04 giây; 01 đoạn video có độ dài 34 giây; 01 cây dao tự chế có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 60cm; 01 áo khoác màu đen; 01 quần sọt jean màu xanh; 01 nón bảo hiểm màu đen (bút lục 06; 63).

Kết luận định giá số 70/TCKH-HĐĐG ngày 26/7/2021, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xác định: các bộ phận bị hư hỏng của xe môtô nhãn hiệu SUZUKI biển số 65L1-226.46 có giá trị thiệt hại là 7.500.000 đồng (bút lục 185-187).

Trong quá trình điều tra Ngô Thành L thừa nhận tất cả hai hành vi phạm tội của mình như trên (bút lục 145-175).

Đối với Phạm Văn K: Có đi cùng L để bán xe mô tô biển số 65B2-618.77 nhưng không biết đây là tài sản do L lừa đảo mà có do đó không xử lý vài trò đồng K trong vụ án này. Ngoài ra khi K cùng với L tham gia đuổi đánh Kh nhưng không có bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau, không biết việc L làm hư hỏng xe môtô của Kh nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự. Ngày 31/12/2021 Công an quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ ra quyết định xử phạt hành chính đối Phạm Văn K 200.000 đồng về hành vi gây mất trật tự công cộng (bút lục 113-118; 243).

Đối với Vũ Trương Tuấn Ng và Quách Văn C: Khi cầm cố, mua bán xe môtô biển số 65H1-264.54 và xe môtô biển số 65B2-618.77 không biết tài sản do L phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại: 01 xe môtô biển số 65H1-264.54, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 65H1-264.54, 01 xe môtô biển số 65B2-618.77 cho Trần Kim Ph và Trần Ngọc Th là chủ sở hữu hợp pháp (bút lục 69-70).

Riêng xe môtô biển số 65L1-226.46, quá trình điều tra xác định xe không đúng với chủ sở hữu được đăng ký tại Cơ quan Công an. Tại bản kết luận số 322/KLGĐ – PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ xác định số khung đã được hàn ghép, Giấy chứng nhận đăng ký xe số 193500 mang tên Nguyễn Văn Hải được Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ Công an thành phố Cần Thơ cấp ngày 12/10/2016 không lưu trữ trên hệ thống quản lý, có dấu hiệu được làm giả. Ngày 21/12/2021, Cơ quan điều tra đã ra trưng cầu giám định Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô này nhưng chưa có kết quả. Do đó, Cơ quan điều tra tiến hành tách chuyển xe mô tô biển số 65L1-226.46 và tài liệu có liên quan sang vụ việc khác để tiếp tục điều tra làm rõ theo quy định (Bút lục 205-210).

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Ngô Thành L đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại, các bên đã nhận tiền và cam kết không khiếu nại gì về sau, đồng thời các bị hại có đơn bãi nại cho L (bút lục 215-222).

Cáo trạng số 13/CT-VKS-CR ngày 16/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cái Răng truy tố bị cáo Ngô Thành L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 và tội "Cố ý là hư hỏng tài sản" quy định tại Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 và tội "Cố ý là hư hỏng tài sản" quy định tại Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và được bị hại bãi nại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Bị cáo có sức khỏe lao động nhưng vì lười biếng lao động, ham chơi cờ bạc, thích hưởng thụ thành quả lao động của người khác. Hành vi này thể hiện sự manh động, xem thường pháp luật nên cần thiết phải có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và 09 tháng đến 01 năm tù giam về tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản". Tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 02 năm 03 tháng đến 03 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 22/10/2021.

Về tang vật, vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định trả lại xe mô tô biển số 65H1-264.54 kèm Giấy chứng nhận đăng ký xe và xe môtô biển số 65B2-618.77 cho bà Trần Kim Ph và chị Trần Ngọc Th. Đối với xe môtô biển số 65L1-226.46 số khung đã được hàn ghép, tẩy xóa, không lưu trữ trên hệ thống quản lý Nhà nước và có dấu hiệu làm giả nên Cơ quan điều tra tách chuyển sang vụ việc khác tiếp tục điều tra làm rõ theo quy định là có căn cứ.

Đối với chủ tiệm cầm đồ ông Vũ Trương Tuấn Ng và ông Quách Văn C không biết tài sản do bị cáo L phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Thiệt hại của ông Ng, ông C và anh Kh được gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ và đã nhận xong, không yêu cầu gì thêm nên ghi nhận, không xem xét giải quyết.

Đối với đoạn video có độ dài 01 phút 04 giây và 34 giây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án đề nghị tịch thu lưu hồ sơ. Đối với 01 cây dao tự chế có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 60cm, 01 áo khoác màu đen, 01 quần sọt jean màu xanh, 01 nón bảo hiểm màu đen không có giá trị sử dụng đề nghị tịch thu, tiêu hủy.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như Cáo trạng truy tố, thống nhất các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đại diện Viện kiểm sát trình bày. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, tuyên mức án nhẹ để bị cáo có cơ hội sửa đổi, sớm trở về gia đình, hòa nhập xã hội. Đối với Chứng minh nhân dân và Căn cước công dân của bị cáo đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại, mẹ bị cáo bà Hận đã nhận.

Bị hại chị Th, bà Ph trình bày: Đã nhận lại toàn bộ tài sản, không yêu cầu gì liên quan đến thiệt hại. Xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bà C – Người giám hộ của anh Thiều Nhựt Kh trình bày: Đã nhận toàn bộ tiền bồi thường thiệt hại từ gia đình bị cáo, không yêu cầu thêm. Đề nghị xét xử theo quy định.

Ông Vũ Trương Tuấn Ng và ông Quách Văn C: Vắng mặt.

Anh K trình bày (người làm chứng): K là bạn quen bên ngoài với bị cáo, thường xuyên đi uống cà phê với nhau. Bị cáo có chở K đến tiệm cầm đồ để cầm, bán xe. Vì thấy bị cáo thường điều khiển 02 chiếc xe này nên nghĩ là xe của bị cáo (Sau này bị mời làm việc mới biết xe của bà Ph và chị Th) nên không hề biết 02 chiếc xe này bị cáo lừa gạt người khác mà có. Việc bị cáo bán xe cũng không có cho tiền hay chia lại cho K. Thời điểm bị cáo đánh, đập phá xe của anh Kh thì lúc đó ngồi uống cà phê chung với nhau, bị cáo thấy anh Kh điều khiển xe chạy ngang qua nên kêu K lên xe chở đi nhưng khi K hỏi thì bị cáo không nói chở đi đánh anh Kh. Khi đến nơi thì mới hay biết nên có chạy tới rút chìa khóa xe để anh Kh không bỏ chạy được. Đến khi bị cáo kêu K ở lại để về nhà cũng không nói về lấy dụng cụ đập phá xe chỉ đến khi quay lại mới biết nhưng quá trình đập phá này K không tham gia mà chỉ có một mình bị cáo thực hiện.

Chị H trình bày (người làm chứng): Thời điểm bị cáo đập phá xe của anh Kh thì chị không có mặt. Chị chỉ có mặt ở thời điểm ngồi uống cà phê chung với bị cáo, đến khi thấy anh Kh điều khiển xe chạy ngang qua thì có nghe bị cáo kêu anh K lên xe chởi đi một chút nhưng cũng khộng nói là chở đi đánh, đập phá xe của Kh. Chỉ đến khi sau này Công an mời làm việc thì mới biết lúc đó bị cáo đi đánh, đập phá xe của anh Kh.

Bà H (mẹ bị cáo) tuy không được Tòa án xác định tư cách tham gia tố tụng nhưng có mặt tại phiên tòa trình bày: Khi vụ án xảy ra bà đã vay mượn tiền khắc phục hậu quả thay cho bị cáo và xin lỗi, các bị hại đã nhận và cũng thấu hiểu nên có đơn xin bãi nại. Về Chứng minh nhân dân và Căn cước công dân của bị cáo L bà đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại, bà đã nhận.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, cũng như ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị cáo và chị Th quen biết, chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà chị Th. Do anh Kh là người yêu cũ của chị Th nên giữa bị cáo và anh Kh có xảy ra mâu thuẫn trước đó nên vào ngày 04/3/2021 bị cáo đã dùng dao tự chế đập phá làm hư hỏng nhiều bộ phận xe Suzuki biển số 65L1-226.46 của anh Kh. Cũng trong quá trình chung sống với chị Th vì không chí thú làm ăn, ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần không có khả năng trả nên bị cáo có sự chuẩn bị từ trước lợi dụng sự tin tưởng của chị Th, bà Ph dùng thủ đoạn gian dối vào ngày 28/9/2021 và ngày 06/10/2021 để mượn xe mô tô của chị Th và bà Ph đi chơi nhưng thực chất mang đi cầm, bán lấy tiền trả nợ, tiêu xài cá nhân cho đến khi hành vi bị phát hiện. Như vậy, các hành vi bị cáo thực hiện trực tiếp xâm phạm đến quyền sử hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, giá trị các tài sản thiệt hại qua định giá đối với 02 xe mô tô của chị Th, bà Ph là 44.000.000 đồng, của anh Kh 7.500.000 đồng đã đủ các yếu tố cấu thành tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 và tội “cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

[2] Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục toàn bộ thiệt hại và được các bị hại bãi nại thuộc tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng, cân nhắc mức hình phạt khi lượng hình. Tuy không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét về ý thức, tính chất, mức độ phạm tội thấy rằng bị cáo có tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe lao động tạo thu nhập nuôi sống bản thân nhưng chỉ vì thích hưởng thụ, lười biếng, ham chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần thể hiện lối sống buông thả, bất cần. Mặc dù sống trong nhà của chị Th, bà Ph, không những một lần mà đến hai lần bị cáo cố tình gian dối, lừa gạt chiếm đoạt tài sản. Lối sống buông thả, bất cần của bị cáo còn thể hiện qua sự manh động, thích dùng vũ lực giải quyết mâu thuẫn cá nhân hòng làm hư hỏng tài sản của người khác. Hành vi bị cáo thực hiện thể hiện thái độ xem thường pháp luật nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cảnh tỉnh, răn đe và phòng ngừa chung. Qua đó, thấy rằng đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 xử phạt bị cáo với mức án như đề nghị là có căn cứ, phù hợp với những gì bị cáo đã thể hiện, thực hiện. Do bị cáo phạm hai tội danh khác nhau trong cùng vụ án nên cần thiết phải áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[3] Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định trả lại vật chứng 01 xe mô tô biển số 65H1-264.54 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 xe môtô biển số 65B2-618.77 cho Trần Kim Ph và Trần Ngọc Th đúng quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với xe môtô biển số 65L1-226.46 (kèm Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 65L1-226.46) có số khung bị hàn ghép, tẩy xóa, không lưu trữ trên hệ thống quản lý Nhà nước và có dấu hiệu làm giả nên Cơ quan điều tra tách chuyển sang vụ việc khác tiếp tục điều tra làm rõ là cần thiết và đúng quy định. Đối với chủ tiệm cầm đồ ông Vũ Trương Tuấn Ng và ông Quách Văn C không biết tài sản mình cầm cố, mua bán do bị cáo phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Ông Ng, ông C, anh Kh đã được gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại, đã nhận xong và không yêu cầu gì thêm nên ghi nhận, không xem xét giải quyết gì thêm.

[4] Căn cứ điểm c Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 cây dao tự chế có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 60cm; 01 áo khoác màu đen; 01 quần sọt jean màu xanh; 01 nón bảo hiểm màu đen. Lưu hồ sơ 01 hợp đồng mua bán xe biển số 65H1-264.54; 01 hợp đồng cầm cố tên Ngô Thành L; 01 đoạn video có độ dài 01 phút 04 giây và 34 giây là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 38, Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 55, Khoản 1 Điều 174, Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thành L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản".

Xử phạt: Bị cáo Ngô Thành L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 09 (chín) tháng tù giam về tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản".

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 22/10/2021.

Về xử lý tang vật, vật chứng và trách nhiệm dân sự: Công nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bà Trần Kim Ph 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Vision màu vàng biển số 65H1-264.54, số máy: JF66E0211788, số khung: RLHJF5815GY211767 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 65H1-264.54; Trả lại cho chị Trần Ngọc Th 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen biển số 65B2-618.77, số máy: JK03E-0017819, số khung: RLHJK030XMY012450.

Ghi nhận, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cái Răng tách chuyển, tiếp tục điều tra xử lý theo thẩm quyền vụ việc xe môtô biển số 65L1-226.46 (kèm Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 65L1-226.46) có số khung bị hàn ghép, tẩy xóa, không lưu trữ trên hệ thống quản lý Nhà nước và có dấu hiệu làm giả.

Ghi nhận ông Vũ Trương Tuấn Ng, ông Quách Văn C và anh Thiều Nhựt Kh đã nhận bồi thường toàn bộ thiệt hại, không yêu cầu gì thêm.

Tịch thu, lưu hồ sơ 01 hợp đồng mua bán xe biển số 65H1-264.54; 01 hợp đồng cầm cố tên Ngô Thành L; 01 đoạn video có độ dài 01 phút 04 giây; 01 đoạn video có độ dài 34 giây. Tịch thu, tiêu hủy 01 cây dao tự chế có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 60cm; 01 áo khoác màu đen; 01 quần sọt jean màu xanh;

01 nón bảo hiểm màu đen không có giá trị sử dụng.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 bị cáo phải chịu 200.000đồng.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo và đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;