TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 99/2021/HS-ST NGÀY 06/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:
Bùi Đình L, sinh ngày 22 tháng 6 năm 2000 tại thành phố Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn Á, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Đỗ D1, sinh năm 1966 và con bà Mông Thị H, sinh năm 1970; Chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 393/QĐ-XPHC ngày 04/9/2020 của Công an thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá xử phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, thi hành xong ngày 11/9/2020; Nhân thân: Bản án số 281/2020/HS-ST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá và Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 19/2021/HSPT-QĐ ngày 05/02/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử phạt 07 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, được trừ 09 ngày tạm giữ từ ngày 14/7/2020 đến ngày 23/7/2020, thi hành án từ ngày 08/4/2021; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 10/6/2021; có mặt.
- Bị hại: Chị Vũ Thị Thanh N1, sinh năm 1997; Địa chỉ thường trú: Thôn L, xã N2, huyện N3, tỉnh Nam Định; Địa chỉ hiện nay: Thôn H1, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Đình L nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản (tiền) của người khác bằng cách sử dụng tài khoản facebook, giả vờ có khả năng cung cấp công việc làm thêm tại nhà, rồi yêu cầu người có nhu cầu công việc chuyển tiền đặt cọc vào tài khoản của mình lấy tiền ăn tiêu cá nhân. Bùi Đình L đã lập tài khoản facebook có tên “Việc làm tại gia”, sử dụng hình ảnh có chữ “TUYỂN DỤNG” làm ảnh đại diện và tải các hình ảnh trên mạng có các nội dung công nhân đang làm việc tại công ty, văn phòng, nhà xưởng của người khác rồi đăng lên mạng xã hội để tạo niềm tin cho mọi người có công việc thật. Bùi Đình L đăng tin tuyển người làm thêm tại nhà (lắp ráp bút bi, dán tem son, xâu chuỗi hạt…) với mức lương cao. Đồng thời Bùi Đình L để lại số điện thoại cho mọi người liên lạc.
Ngay sau khi Bùi Đình L đăng tin tuyển dụng, chị Vũ Thị Thanh N1 đã sử dụng tài khoản facebook “Thanh Nghĩa” liên lạc với Bùi Đình L qua tài khoản facebook “Việc làm tại gia” để tìm việc làm phù hợp. Khoảng 07 giờ ngày 31/10/2020, Bùi Đình L trả lời tin nhắn và tư vấn cho chị Vũ Thị Thanh N1 làm công việc dán tem son. Bùi Đình L và chị Vũ Thị Thanh N1 thỏa thuận, chị Vũ Thị Thanh N1 dán 1.000 chiếc tem trong thời gian 20 ngày thì được hưởng mức lương 6.000.000 đồng. Chị Vũ Thị Thanh N1 yêu cầu Bùi Đình L cung cấp các thông tin về cơ sở sản xuất thì Bùi Đình L sử dụng các hình ảnh nhiều công nhân làm việc tại văn phòng và nhà xưởng tải trên mạng xã hội và nói với chị Vũ Thị Thanh N1 trụ sở công ty đặt tại số 304 phố Tôn Đức Thắng, phường Hàng Bột, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Sau khi kiểm tra thông tin, thấy chị Vũ Thị Thanh N1 đã tin tưởng, Bùi Đình L yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 phải chuyển tiền đặt cọc 600.000 đồng vào tài khoản số 0620122168888 của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, chủ tài khoản là Đồng Thị T3, sinh năm 2002, trú tại thôn B, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng để làm hợp đồng. Chị Vũ Thị Thanh N1 đồng ý, chuyển tiền cho Bùi Đình L vào hồi 10 giờ 13 phút ngày 31/10/2020. Sau khi nhận được tiền, Bùi Đình L tiếp tục nhắn tin trao đổi với chị Vũ Thị Thanh N1 về việc Bùi Đình L sẽ chuyển 1000 thỏi son để chị Vũ Thị Thanh N1 dán tem và yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 phải đặt cọc 1.500.000 đồng làm tin. Chị Vũ Thị Thanh N1 đồng ý và tiếp tục chuyển tiền vào tài khoản trên cho Bùi Đình L vào hồi 14 giờ 06 phút cùng ngày.
Để chiếm đoạt được nhiều tiền hơn của chị Vũ Thị Thanh N1, Bùi Đình L tiếp tục dùng thủ đoạn mới. Bùi Đình L tải hình ảnh kết quả giao dịch thành công của dịch vụ Internet Banking của ứng dụng ZaloPay, sửa chữa thông tin bằng ứng dụng Photosoft. Bùi Đình L nói với chị Vũ Thị Thanh N1 về việc Bùi Đình L chưa nhận được 1.500.000 đồng tiền đặt cọc do việc chuyển tiền của chị Vũ Thị Thanh N1 bị thiếu thông tin cá nhân và yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 chuyển lại tiền. Chị Vũ Thị Thanh N1 không đồng ý thì Bùi Đình L sử dụng hình ảnh kết quả giao dịch tiền Internet Banking của ZaloPay đã chỉnh sửa có nội dung Bùi Đình L đã chuyển tiền vào tài khoản của chị Vũ Thị Thanh N1 3.000.000 đồng, gửi cho chị Vũ Thị Thanh N1 xem. Bùi Đình L yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 trả lại Bùi Đình L 1.500.000 đồng, còn số tiền 3.000.000 đồng mà Bùi Đình L đã chuyển sẽ đến tài khoản của chị Vũ Thị Thanh N1 2 đến 3 giờ sau. Chị Vũ Thị Thanh N1 đồng ý, Bùi Đình L yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 chuyển tiền vào tài khoản số 0031000344663 của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, chủ tài khoản là Đoàn Thị P3, sinh năm 1994, trú tại thôn V, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng. Nhưng do tài khoản của mình không đủ tiền để chuyển cho Bùi Đình L nên chị Vũ Thị Thanh N1 đã nhờ bạn là anh Nguyễn Minh T4, sinh năm 1994, trú tại xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình chuyển 1.500.000 đồng đến tài khoản của Đoàn Thị P3 theo yêu cầu của Bùi Đình L. Chị Vũ Thị Thanh N1 báo cho Bùi Đình L biết đã chuyển tiền thành công. Thấy chị Vũ Thị Thanh N1 cả tin, Bùi Đình L báo với chị Vũ Thị Thanh N1 chưa nhận được tiền rồi tiếp tục sử dụng hình ảnh kết quả giao dịch thành công của dịch vụ Internet Banking của ebanking, đã chuyển 5.000.000 đồng và yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 chuyển lại 2.000.000 đồng nhưng chị Vũ Thị Thanh N1 không tin.
Thấy chị Vũ Thị Thanh N1 nghi ngờ, Bùi Đình L nói với chị Vũ Thị Thanh N1 đã chuyển số lượng son để chị Vũ Thị Thanh N1 dán tem và cung cấp số điện thoại của người giao hàng cho chị Vũ Thị Thanh N1 và hẹn giao dịch tại địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Bùi Đình L tiếp tục yêu cầu chị Vũ Thị Thanh N1 chuyển 2.000.000 đồng nhưng chị Vũ Thị Thanh N1 không chuyển và nhờ người quen đến điểm hẹn ở huyện An Lão kiểm tra thì không thấy người giao hàng. Chị Vũ Thị Thanh N1 yêu cầu Bùi Đình L trả lại 3.600.000 đồng nhưng Bùi Đình L không trả nên đã đến Công an huyện Thủy Nguyên trình báo. Sau đó chị Vũ Thị Thanh N1 đã được Bùi Đình L hoàn trả 3.600.000 và không yêu cầu bồi thường thêm.
Vật chứng của vụ án: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu trắng gắn sim số 0846404953 thu giữ của Bùi Đình L.
Cáo trạng số 103/CT-VKSTN ngày 06 tháng 8 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Bùi Đình L về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo trình bày đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên và đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên luận tội, kết tội đối với bị cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại vắng mặt tại phiên toà có lời trình bày đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt ở trên.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Đình L với mức án từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt còn lại bị cáo chưa chấp hành tại Bản án số 281/2020/HS-ST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá và Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 19/2021/HSPT-QĐ ngày 05/02/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử phạt 07 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại không có yêu cầu. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu trắng gắn sim số 0846404953. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
- Về tố tụng:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.
- Về tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo:
[2] Về tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận trong thời gian cuối tháng 10/2020 bị cáo Bùi Đình L đã tạo lập tài khoản trên mạng xã hội Facebook, đưa ra các thông tin, hình ảnh giả về việc có khả năng cung cấp việc làm tại nhà, yêu cầu chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng để đặt cọc, sử dụng các hình ảnh là kết quả giao dịch thành công của dịch vụ Internet Banking, chỉnh sửa thông tin, giả vờ chưa nhận được tiền, làm bị hại chị Vũ Thị Thanh N1 tin tưởng là thật chuyển tiền vào tài khoản theo yêu cầu của bị cáo Bùi Đình L với mục đích chiếm đoạt tiền. Bằng thủ đoạn gian dối trên, trong ngày 31/10/2020 bị cáo Bùi Đình L đã chiếm đoạt của bị hại chị Vũ Thị Thanh N1 tổng số tiền là 5.600.000 đồng, trong đó đã chiếm đoạt được 3.600.000 đồng. Nên hành vi của bị cáo Bùi Đình L đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 103/CT-VKSTN ngày 06 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo và lời luận tội, kết tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng pháp luật.
- Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và hình phạt áp dụng:
[3] Tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là ít nguy hiểm đã xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ gây mất trật tự trị an xã hội.
[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại do đó bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo đã từng bị kết án, bị xử lý hành chính nên xác định bị cáo có nhân thân xấu.
[6] Về mức hình phạt áp dụng: Phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, như vậy mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Do bị cáo đang phải chấp hành Bản án số 281/2020/HS-ST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá và Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 19/2021/HSPT-QĐ ngày 05/02/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử phạt 07 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, được trừ 09 ngày tạm giữ từ ngày 14/7/2020 đến ngày 23/7/2020, thi hành án từ ngày 08/4/2021 nên áp dụng Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.
[7] Tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo là lao động tự do, không có nguồn thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về những vấn đề khác:
[8] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vấn đề dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu trắng, số Imei 356111096133892 có gắn sim số 0846404953 đã qua sử dụng do bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Trong vụ án này, chị Vũ Thị Thanh N1 chuyển tiền cho Bùi Đình L qua tài khoản của Đồng Thị T3, Đoàn Thị P3. Đồng Thị T3 và Bùi Đình L có quan hệ tình cảm, cả hai ăn ở cùng nhau. Đồng Thị T3 cài đặt ứng dụng Internet Banking trên điện thoại của mình. Khi Đồng Thị T3 đi học, để điện thoại ở nhà, Bùi Đình L đã tự ý lấy điện thoại của mình để giao dịch nhận tiền của chị Vũ Thị Thanh N1 qua tài khoản Internet Banking. Đoàn Thị P3 không quen biết Bùi Đình L. Đoàn Thị P3 cho bạn của mình là Đặng Ngọc T5, sinh năm 2000, trú tại thôn Đ, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng sử dụng thông tin cá nhân để lập tài khoản ở Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Đặng Ngọc T5 và Bùi Đình L là bạn bè, trưa ngày 31/10/2020, Bùi Đình L nhắn tin cho Đặng Ngọc T5 hỏi mượn tài khoản ngân hàng để nhận tiền, Đặng Ngọc T5 đồng ý, Đặng Ngọc T5 đã nhận được 1.500.000 đồng và chuyển lại cho Bùi Đình L. Quá trình điều tra chứng minh Đồng Thị T3, Đoàn Thị P3, Đặng Ngọc T5 không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của Bùi Đình L nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên không xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Đình L 18 (mười tám) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Áp dụng Điều 55, Điều 56 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt tại Bản án số 281/2020/HS-ST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá và Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 19/2021/HSPT-QĐ ngày 05/02/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xử phạt 07 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, được trừ 09 ngày tạm giữ từ ngày 14/7/2020 đến ngày 23/7/2020, thi hành án từ ngày 08/4/2021, buộc bị cáo Bùi Đình L phải chấp hành hình phạt chung là 22 (hai mươi hai) tháng 19 (mười chín) ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam ngày 10/6/2021.
Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu trắng, số Imei 356111096133892 có gắn sim số 0846404953 đã qua sử dụng (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).
Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Đình L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 99/2021/HS-ST
Số hiệu: | 99/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về