TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 964/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong các ngày từ 26 đến 30 tháng 9 năm 2024, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 536/2024/TLPT-HS ngày 26 tháng 6 năm 2024, đối với các bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Do có kháng cáo của các bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G và kháng cáo của người bị hại, gồm các ông (bà): Nguyễn Khoa T1, Đỗ Thị Thanh T2, Phạm Thị Bích Phượng, Trịnh T Nhật Anh, Trần Thị Công Tâm T, H5, Hoàng Ánh Tuyết, Trang Hồng Đoan, Trần Anh Tú, Phạm Xuân Q, Lê Tăng Th, Trần C, Trần K với Bản án hình sự sơ thẩm số 239/2024/HS-ST ngày 21 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 863/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 8 năm 2024.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Ngô Kim T3, sinh năm 1991, Kon Tum.
Nơi thường trú: Ấp C, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; chỗ ở: C Tòa S Chung cư V, E N, phường L, thành phố T, Thành phố H; học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Giám đốc Công ty Cổ phần Đ2 Real; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Kim S và bà Phạm Thị T4; có vợ Huỳnh Thị Tuyết M và 02 con sinh năm 2016 và năm 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 16/6/2022 (có mặt).
2. Lê Văn G1, sinh năm 1989, Nghệ An.
Nơi thường trú: Xóm A, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: B Chung cư T, Đường A, phường T, thành phố T, Thành phố H; học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Đ2 Real; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T5 và bà Lê Thị S1; có vợ Hoàng Thị T6 và 02 con sinh năm 2012 và năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam ngày 11/3/2022 (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Ngô Kim T7_tên Lê Văn G 1. Luật sư Nguyễn Thị Huyền T8 (vắng mặt).
2. Luật sư Lê Thị Bích C (có mặt).
3. Luật sư Đặng Kim C1 (có mặt).
Cùng Đoàn Luật sư Thành phố H.
Bị hại có kháng cáo:
1. Ông Nguyễn Khoa Tâm, sinh năm 1972 (có mặt).
Trú tại: 1 Đình P, Khu phố C, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bà Đỗ Thị Thanh Tâm, sinh năm 1987 (có mặt).
Trú tại: A Đường B, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ông Trần Kiên, sinh năm 1971 (có mặt).
Trú tại: B Chung cư T, E Đ, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bà Phạm Thị Bích Phượng, sinh năm 1985 (vắng mặt).
Trú tại: B H, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ông Trịnh Trung Kiên, sinh năm 1984 (có mặt).
Trú tại: A T, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Bà Nguyễn Thị Thanh Trước, sinh năm 1977 (vắng mặt).
Trú tại: A L, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Ông Phan Nhật Anh, sinh năm 1981 (có mặt).
Trú tại: C Đường số B, Khu phố D, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Ông Tạ Hữu V, sinh năm 1978 (có mặt).
Trú tại: 8 Đình P, Khu phố B, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Bà Trần Thị Công Tâm, sinh năm 1980 (vắng mặt).
Trú tại: 8 Đình P, Khu phố B, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Ông Hoàng Xuân Sơn, sinh năm 1964 (vắng mặt).
Trú tại: 3 Tổ H, Khu phố C, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Bà Ngô Anh Thư, sinh năm 1978 (vắng mặt).
Trú tại: 7 B, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
12. Bà Trương Thị Hồng Anh, sinh năm 1991 (có mặt).
Trú tại: Thôn Vinh Ba, xã Hòa Đông, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
Chỗ ở: 37/14A Đường số 2, Khu phố 4, phường Tăng Nhơn Phú B, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1986 (vắng mặt).
Trú tại: C Đường số I, Khu phố C, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của các ông (bà): Nguyễn Khoa T1, Đỗ Thị Thanh T2, Trần K1, P1, Trần Anh T9, N4, H Tuyết; Ông Trần Vũ T10, sinh năm 1962 (có mặt).
Trú tại: A đường D, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Bà Hoàng Ánh T11, sinh năm 1983 (có mặt).
Trú tại: H Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Nhật Anh, sinh năm 1981 (có mặt).
Trú tại: C Đường số B, Khu phố D, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Ông Trang Hồng Đ, sinh năm 1980 (vắng mặt).
Trú tại: 17.16 Lầu A Khối B, A Đ, Khu phố B, phường B, thành phố T, Thành phố H; chỗ ở: 223/5 Đường A, Tổ E, Khu phố B, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Ông Trần Anh Tú, sinh năm 1968 (có mặt).
Trú tại: B P, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Ông Phạm Xuân Q, sinh năm 1958 (vắng mặt).
Trú tại: A M, Tổ D, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Phong L1, sinh năm 1963, trú tại: A M, Tổ D, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Ông Lê Tăng Th, sinh năm 1955 (vắng mặt).
Trú tại: A L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Ông Trần Cao N, sinh năm 1971 (vắng mặt).
Trú tại: 1 L, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện ủy quyền: Ông Trần Quang N1, sinh năm 1973 (có mặt).
Địa chỉ: B T, Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị hại không có kháng cáo:
1. Bà Vũ Thị Dân, sinh năm 1982.
Trú tại: 43P đường 160, phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bà Lê Ng T12, sinh năm 1977.
Trú tại: A Đường số A, Khu phố C, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ông Phan Văn T13, sinh năm 1970.
Trú tại: Ô 26B DC 03 KDC V, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hà Thị Thanh, sinh năm 1971.
Trú tại: 18/4 Đường 11, khu phố Chân Phúc Cẩm, phường Long Thạnh Mỹ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 32 Đường 12C, khu phố Chân Phúc Cẩm, phường Long Thạnh Mỹ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Lê Văn Nh, sinh năm 1982.
Trú tại: E T, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ông Hồ Nhật L, sinh năm 1977.
Trú tại: C T, Khu phố F, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Ông Lê Tấn T, sinh năm 1990.
Trú tại: Số A Đường G, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ông Phạm Văn Ng, sinh năm 1982.
Trú tại: A T, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong vụ án, có một số bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác nhưng không kháng cáo, cũng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 31/10/2001, Trương Thị Kim H được Ủy ban nhân dân Quận I (nay là thành phố T) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01380QSDĐ/LT, diện tích 4.792m² thuộc thửa 593, 594, 595 và 662, tờ bản đồ số 05 tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích sử dụng đất là “đất trồng lúa”.
Ngày 12/12/2018, bà Hà Thị T14, Giám đốc Công ty TNHH L5 (Công ty L5) ủy quyền cho ông Lê Tấn T15, Phó Giám đốc ký Hợp đồng dịch vụ số 10122018/HD-DV/VVH18 với Trương Ng A (chồng Trương Thị Kim H), nội dung hợp đồng: Trương Thị Kim H và Trương Ng A yêu cầu Công ty L5 thực hiện các nội dung như: Lập thủ tục lên thổ cư; xin giấy phép cơ sở hạ tầng; thi công và nghiệm thu hạ tầng kỹ thuật; đánh giá tác động môi trường; cắm mốc ranh đất cho các thửa đất; tách số lẻ theo số lượng lô đất (Bảng phân lô) do bà Trương Thị Kim H và Công ty L5 ký duyệt; giá trị hợp đồng trọn gói là 4.550.000.000 đồng, phương thức thanh toán:
Đợt 1: Trương Thị Kim H tạm ứng cho Công ty L5 số tiền 500.000.000 đồng ngay sau khi ký hợp đồng;
Đợt 2: Khi khởi động thi công hạ tầng và xin Giấy phép hạ tầng kỹ thuật, Trương Thị Kim H tạm ứng cho Công ty L5 số tiền 1.775.000.000 đồng;
Đợt 3: Khi Công ty L5 cung cấp Giấy phép cơ sở hạ tầng và thi công xong hạ tầng kỹ thuật, Trương Thị Kim H tạm ứng tiếp số tiền 1.137.500.000 đồng;
Đợt 4: Sau khi tách số lẻ theo bảng phân lô xong, Trương Thị Kim H thanh toán số tiền còn lại là 1.137.500.000 đồng, thời gian thực hiện hợp đồng 6,5 tháng tính từ ngày nhận được tiền thanh toán đợt 1. Tổng số tiền H đã thanh toán cho bà T14 là 3.750.000.000 đồng.
Ngày 26/12/2018, Trương Thị Kim H, Trương Ng A (bên được môi giới), Công ty Đ2 do Lê Văn G, Phó Tổng giám đốc được Ngô Kim T ủy quyền làm đại diện (bên môi giới) và Công ty L5 do ông Lê Tấn T15, Phó giám đốc làm đại diện (bên làm chứng) đã ký Hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm số 09/HĐ/TT/VVH nội dung: Trương Thị Kim H và Trương Ng A đồng ý giao cho Công ty Đ2 thực hiện việc bán sản phẩm bất động sản cho Trương Thị Kim H làm chủ sở hữu, đặc điểm bất động sản: Đất dân cư hiện hữu, thửa đất số 593, 594, 595, 662; tờ bản đồ số 5 tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01380/QSDĐ/LT do Ủy ban nhân dân Quận I cấp ngày 31/10/2001, tổng số nền dự kiến: 37 nền với giá 35.000.000 đồng/m², số tiền chênh lệch mà Công ty Đ2 bán ra thị trường so với giá Trương Thị Kim H giao là phí môi giới Công ty Đ2 được hưởng, Công ty Đ2 có trách nhiệm ký quỹ 6 tỷ đồng; phương thức thanh toán:
Đợt 1: Nhận đặt chỗ, đặt cọc số tiền 100.000.000 đồng/nền;
Đợt 2: Trong 07-10 ngày mở bán, ký Hợp đồng ba bên giữa khách hàng, Trương Thị Kim H và Công ty Đ2 và thu của khách hàng 30% giá trị hợp đồng;
Đợt 3: Khi có giấy phép hạ tầng dự án, Công ty Đ2 thu tiếp 30% giá trị hợp đồng của khách hàng;
Đợt 4: Khi có Bản vẽ kiểm tra nội nghiệp từng nền, Công ty Đ2 thu tiếp 20% giá trị hợp đồng của khách hàng;
Đợt 5: Khi có số lẻ từng nền đứng tên Trương Thị Kim H và ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng từng nền cho khách hàng, Công ty Đ2 thu tiếp 20% giá trị hợp đồng.
Số tiền ký quỹ, Công ty Đ2 sẽ được thu về khi Công ty Đ2 đã bán hàng và thu của khách hàng 60% tổng giá trị bán ra của 37 nền, thời gian thực hiện hợp đồng không quá 08 tháng. Trường hợp, Công ty L5 thực hiện pháp lý bị rủi ro không ra được giấy phép hạ tầng, nghiệm thu hạ tầng, không ra được số lẻ từng nền cho khách hàng và vi phạm hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký giữa Trương Thị Kim H và Công ty L5 dẫn đến phải đền cọc cho khách hàng mà Công ty Đ2 đã môi giới bán thành công, thì Công ty L5 chịu 100% các khoản tiền đền cọc cho các khách hàng, Trương Thị Kim H và Công ty Đ2 hoàn trả 100% phần tiền cọc.
Sau khi ký hợp đồng 03 bên, Ngô Kim T và Lê Văn G dựa vào bản đồ phân lô dự kiến tiến hành vẽ 3D thêm một số tiện ích, tiểu cảnh như: Cây cổ thụ, xe, nhà và tự đặt tên dự án là Khu dân cư L để quảng cáo bán sản phẩm bất động sản. Lúc này, khu đất vẫn đang là đất trồng lúa, đứng tên hộ Trương Thị Kim H chưa được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư dự án và chưa đủ điều kiện để bán các sản phẩm bất động sản nhưng từ tháng 01/2019 đến tháng 4/2019, Ngô Kim T và Lê Văn G tiến hành quảng cáo và bán được 29 nền cho 22 khách hàng với giá từ 38.000.000 đồng đến 40.500.000 đồng/m² và đã thu tiền của khách hàng từ 30-60% giá trị hợp đồng thu tổng cộng 29.603.378.000 đồng. Căn cứ hợp đồng phân phối sản phẩm độc quyền, T và G đã chuyển cho Trương Thị Kim H tổng số tiền 23.938.360.000 đồng, số tiền chênh lệch 5.665.018.000 đồng từ việc bán sản phẩm bất động sản, Ngô Kim T và Lê Văn G được hưởng.
Xác minh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H, kết quả: Công ty Cổ phần Đ2 được thành lập ngày 17/05/2017 theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0314409788, trụ sở chính tại Lầu I, số F đường N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, vốn điều lệ: 2.000.000.000 đồng, người đại diện theo pháp luật là Ngô Kim T, Tổng giám đốc Công ty, ngành nghề kinh doanh: Tư vấn, môi giới, đấu giá bất động sản, đấu giá quyền sử dụng đất…. Đến nay, doanh nghiệp chưa đăng ký biến động và giải thể.
Xác minh tại Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố T, kết quả: Ngày 23/4/2019, Ủy ban nhân dân Quận I cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN255728, gồm thửa 1051, diện tích 4.792m² bao gồm 2.874,6m² đất ở và 1.917m² đất trồng lúa, tờ bản đồ số 6, phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh cho hộ Trương Thị Kim H (Giấy chứng nhận này thay thế Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01380QSDĐ/LT ngày 31/10/2001 của Ủy ban nhân dân Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh). Ngày 11/11/2019, Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I xác nhận thay đổi chủ sở hữu khu đất trên từ hộ Trương Thị Kim H sang cá nhân Trương Thị Kim H.
Ngày 03/12/2019, Trương Thị Kim H có nộp hồ sơ đề nghị tách thửa đối với thửa đất số 1051, tờ bản đồ số 6, phường L, Quận I thành 16 thửa, với vị trí, kích thước thể hiện theo bản vẽ sơ đồ nhà đất do Công ty Cổ phần T25 lập ngày 28/5/2019, được Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I kiểm tra nội nghiệp ngày 09/10/2019. Do trường hợp tách thửa của Trương Thị Kim H với vị trí, kích thước nêu trên chưa đủ điều kiện tách thửa nên ngày 07/4/2020, Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I có văn bản số 4343/VPDKCNQ9 trả hồ sơ tách thửa của Trương Thị Kim H với vị trí, kích thước nêu trên.
Xác minh tại Ủy ban nhân dân Thành phố T: Căn cứ đồ án điều chỉnh (mở rộng) quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị (quy hoạch phân khu) tỷ lệ 1/2000 khu trung tâm và dân cư Quận I, phường L, Quận I đã được Ủy ban nhân dân Thành phố H duyệt tại Quyết định số 4043/QĐ-UBND ngày 26/7/2013, các thửa đất 593, 594, 595, 662 có thông tin quy hoạch đô thị như sau: Thửa số 593 thuộc quy hoạch đất ở hiện hữu cải tạo kết hợp xây dựng mới. Thửa số 594, có một phần diện tích thuộc quy hoạch đường giao thông lộ giới 20m và phần lớn diện tích còn lại thuộc quy hoạch đất ở hiện hữu cải tạo kết hợp xây dựng mới. Thửa số 595, có một phần diện tích thuộc quy hoạch đường giao thông lộ giới 20m và phần diện tích còn lại thuộc quy hoạch đất ở hiện hữu cải tạo kết hợp xây dựng mới. Thửa số 662, có một phần diện tích thuộc quy hoạch đường giao thông lộ giới 20m và phần diện tích còn lại thuộc quy hoạch đất xây dựng công trình y tế, bệnh viện.
Ủy ban nhân dân Thành phố T chưa giải quyết tách thửa đối với các thửa đất trên (thửa 593, 594, 595, 662; tờ bản đồ số 5 nay là thửa 1051, tờ bản đồ số 6 phường L) do hồ sơ đề nghị tách thửa của hộ Trương Thị Kim H chưa đủ điều kiện để được xem xét giải quyết tách thửa theo quy định. Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I có văn bản số 4343/VPDK-CNQ9 ngày 07/4/2020 về hoàn trả hồ sơ tách thửa của Trương Thị Kim H. Hiện trên địa bàn phường L, thành phố T không có dự án tên Khu dân cư L của Công ty Cổ phần Đ2.
Xác minh tại Sở Xây dựng Thành phố H, kết quả: Sở Xây dựng chưa tiếp nhận hồ sơ của Trương Thị Kim H, Công ty Đ2 hay các cá nhân tổ chức khác là chủ đầu tư dự án tại thửa đất số 595, 662, 594, 593; tờ bản đồ số 5 hoặc tại thửa đất số 1051, tờ bản đồ số 6, diện tích 4.792m² bao gồm 2.874,6m² đất ở và 1.917m² đất trồng lúa tại phường L, Quận I đề nghị thực hiện các thủ tục thông báo xác nhận đủ điều kiện được huy động vốn hoặc thông báo nhà ở hình thành trong tương lai đủ điều kiện được bán, cho thuê mua nhà ở.
Xác minh tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh, kết quả: Trương Thị Kim H đã xuất, nhập cảnh vào Việt Nam 14 lần, lần xuất cảnh gần nhất là ngày 01/01/2020, hiện chưa có thông tin nhập cảnh. Trương Ng A xuất, nhập cảnh 21 lần, lần gần nhất xuất cảnh là ngày 20/8/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.
Kết quả ghi lời khai, như sau:
Lê Văn G, Phó Tổng giám đốc Công ty Đ2 khai:
Theo ủy quyền của Ngô Kim T, G ký Hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm số 09/HĐ/TT/VVH ngày 26/12/2018; dựa trên bản đồ phân lô dự kiến do Công ty L5 vẽ, G tiến hành vẽ thêm một số tiểu cảnh, tiện ích xung quanh và tự đặt tên dự án là Khu dân cư L; từ tháng 01/2019 đến tháng 04/2019, Công ty Đ2 đã bán được 29 nền cho 22 khách hàng với giá từ 38.000.000 đồng đến 40.500.000 đồng/m² và đã tiến hành thu tiền của khách hàng từ 30%-60% giá trị hợp đồng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, tổng cộng thu của khách hàng là 29.603.378.000 đồng. Số tiền thu được từ khách hàng, Công ty đã chuyển cho vợ, chồng Trương Thị Kim H và Trương Ng A bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản vào tài khoản 060119804836 của Trương Ng A mở tại Ngân hàng S3 và tài khoản số 1540106177005 của Trương Thị Kim H mở tại Ngân hàng Q2, tổng cộng 23.938.360.000 đồng, số tiền chênh lệch 5.665.018.000 đồng là phí môi giới Ngô Kim T và Lê Văn G được hưởng. Số tiền này, G sử dụng vào mục đích của Công ty Đ2 như: Trả lương nhân viên kinh doanh, tiền thuê mặt bằng công ty...nhưng không cung cấp được tài liệu chứng minh.
G thừa nhận, thời điểm bán các sản phẩm bất động sản cho Trương Thị Kim H thì hiện trạng khu đất là đất trồng cây lâu năm, chủ sở hữu là hộ Trương Thị Kim H, chưa được Cơ quan có thẩm quyền cho phép đầu tư dự án, việc G ký các hợp đồng đặt cọc với khách hàng theo ủy quyền của Ngô Kim T, Tổng giám đốc Công ty Đ2 để bán sản phẩm cho Trương Thị Kim H theo Hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm là sai quy định. Do tin tưởng Trương Thị Kim H đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với Công ty L5 để làm thủ tục ra số cho từng thửa, không biết rõ quy định, quy trình tách thửa dẫn đến khách hàng bị chiếm đoạt tiền.
Ngô Kim T, Tổng giám đốc Đ2 khai:
Năm 2018, bà Hà Thị T14, giám đốc Công ty L5 ký hợp đồng dịch vụ làm pháp lý phân lô, tách số lẻ khu đất tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh cho Trương Thị Kim H. Do Trương Thị Kim H đang tìm đơn vị bán các sản phẩm bất động sản này, bà T14 giới thiệu Ngô Kim T làm đơn vị phân phối. Ngô Kim T, Lê Văn G đi xem hiện trạng khu đất, gặp Trương Thị Kim H và bà T14 để thỏa thuận. Ngày 26/12/2018, Ngô Kim T ủy quyền cho Lê Văn G, Phó Giám đốc ký hợp đồng 03 bên ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm số 09/HĐ/TT/VVH. Sau khi ký hợp đồng, Công ty Đ2 đã bán được 29 nền đất và ký hợp đồng đặt cọc 03 bên gồm: Bên đặt cọc là khách hàng, bên nhận cọc là chủ đất Trương Thị Kim H và bên làm chứng Công ty Đ2 do Lê Văn G ký theo ủy quyền của T. Toàn bộ số tiền thu được của khách hàng, Công ty Đ2 chuyển cho Trương Thị Kim H là 23.938.360.000 đồng.
Ngô Kim T thừa nhận, tại thời điểm phân phối sản phẩm bất động sản, hiện trạng pháp lý khu đất của Trương Thị Kim H là đất lúa cấp cho hộ gia đình Trương Thị Kim H, chưa được nhà nước phê duyệt làm hạ tầng tách thửa, chưa được phân lô, tách thửa, đầu tư dự án. Công ty Đ2 môi giới cho khách hàng ký kết hợp đồng đặt cọc với chủ đất để chuyển nhượng đất là chưa đúng với quy định kinh doanh bất động sản. Do T tin tưởng đất nằm trong quy hoạch khu dân cư hiện hữu, có đường hiện hữu có thể tách thửa và chủ đất Trương Thị Kim H cam kết sẽ tách thửa trong thời gian 6 tháng. Đến nay, việc tách thửa chưa hoàn thành.
Hà Thị T14, Giám đốc Công ty L5 khai:
Năm 2018, Trương Ng A có liên hệ với bà để nhờ Công ty L5 tư vấn pháp lý tách thửa đất của ông A tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh, thời điểm này khu đất đang là đất trồng lúa, bà T14 có kiểm tra sơ bộ các điều kiện theo pháp luật về tách thửa do khu đất đủ điều kiện tách thửa nên đồng ý nhận tư vấn thủ tục này cho ông A, với giá thỏa thuận 4.550.000.000 đồng. Ngày 12/12/2018, bà T14 ủy quyền cho ông Lê Tấn T15, Phó Giám đốc ký Hợp đồng dịch vụ số 10122018/HĐ-DV/VVH18 với Trương Ng A với nội dung như trên.
Sau khi ký hợp đồng, bà T14 yêu cầu ông Lê Tấn T15 vẽ bản đồ dự kiến phân lô, tách thửa khu đất thành 37 nền trong phần đất quy hoạch khu dân cư hiện hữu. Cuối năm 2018, Trương Thị Kim H từ Mỹ về Việt Nam, bà T14 cùng với ông Lê Tấn T15 đem bản đồ phân lô, tách thửa dự kiến cho Trương Ng A và Trương Thị Kim H xem tại Khu đô thị L city, số C đường F, phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Trương Ng A và Trương Thị Kim H thống nhất và bà H ký xác nhận lên bản đồ phân lô dự kiến do Công ty L5 vẽ và tạm ứng 3.750.000.000 đồng.
Sau khi ký Hợp đồng dịch vụ, bà T14 giới thiệu Công ty Đ2 cho Trương Ng A, Trương Thị Kim H để phân phối các sản phẩm bất động sản cho Trương Thị Kim H. Ngày 26/12/2018, Trương Thị Kim H, Trương Ng A, ông Lê Tấn T15, Phó Giám đốc Công ty L5 (theo ủy quyền của Hà Thị T14) và Lê Văn G, Phó giám đốc Công ty Đ2 (theo ủy quyền của Ngô Kim T) ký hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm số 09/HĐ/TT/VVH nội dung như trên. Hợp đồng này, do phía Công ty Đ2 dự thảo, chuyển cho bà T14 xem và thống nhất.
Theo hợp đồng, Trương Thị Kim H đã tạm ứng cho bà T14 số tiền 3.750.000.000 đồng, chia làm nhiều đợt, tất cả đều bằng tiền mặt, được bà T14 sử dụng để thực hiện các công việc sau: Chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng lúa lên đất thổ cư cho hộ Trương Thị Kim H; Nộp hồ sơ đầu tư đường giao thông và hệ thống hạ tầng kỹ thuật nhưng không được Ủy ban nhân dân Quận I chấp thuận; Lập hồ sơ xin cải tạo hạ tầng 02 con đường hiện hữu hai bên khu đất và thi công hạ tầng tuy nhiên từ lúc đó đến nay, bà T14 không nhận được bất cứ văn bản nào của Cơ quan chức năng chấp thuận chủ trương đầu tư về việc xin cải tạo hạ tầng nâng cấp 02 con đường hiện hữu nhưng do 02 đường hẻm bị ngập lún nên Ủy ban nhân dân phường cho phép bà T14 thi công trước hệ thống thoát nước và trải nhựa mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông; Đo vẽ 19 thửa đất tiếp giáp 02 tuyến hẻm và nộp bản vẽ đến Văn phòng Đ3 để kiểm tra nội nghiệp xin tách thửa và đã được Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I duyệt bản vẽ nội nghiệp. Lý do đến nay bà T14 chưa tách số được cho khách hàng do không liên hệ được với Trương Thị Kim H.
Tất cả các công việc trên bà T14 thuê Lê Văn N2 thực hiện, không làm hợp đồng. Riêng việc xác nhận thay đổi sở hữu từ hộ Trương Thị Kim H sang cho cá nhân Trương Thị Kim H do H tự thực hiện và ngày 11/11/2019, Trương Thị Kim H đã được Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I xác nhận thửa kể từ các ông/bà: Trương Siêng, Ngô Thị H1, Lê Quang H2 và tặng cho từ các ông (bà) Lê Minh L2, Trương Hoàng G2, Trương Hoàng G3, Trương Thị Kim O, Trịnh Hồng Y, Trịnh Hồng A1, Trương Thị Kim H3.
Lê Văn N2 khai:
Năm 2015, ông N2 là nhân viên môi giới bất động sản tại khu vực thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh có biết và quen bà Hà Thị T14, giám đốc Công ty L5. Năm 2019, bà Hà Thị T14 có gặp ông N2 nhờ làm thủ tục pháp lý tách thửa khu đất cho Trương Thị Kim H, ông N2 đồng ý và đã thực hiện thủ tục như bà T14 nêu trên. Bà T14 nhờ ông N2 (chỉ thỏa thuận, không có làm hợp đồng). Việc đo vẽ, ông N2 nhờ ông Hồ Nhật L3 tiến hành đo vẽ nhà đất để tách 19 thửa các lô đất tiếp giáp với 02 con đường hiện hữu để tách số trước và ngày 09/10/2019, Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I đã kiểm tra và duyệt 16 bản vẽ đo đạc để tách thửa. Hiện nay, khu đất của Trương Thị Kim H vẫn chưa được tách thửa, lý do theo bà T14 nói với ông N2 là Trương Thị Kim H trốn, không đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính nên chưa hoàn tất hồ sơ xin tách thửa để nộp. Quá trình thực hiện, bà T14 chỉ tạm ứng cho ông N2 số tiền 150.000.000 đồng để chuyển mục đích quyền sử dụng đất, chưa thanh toán cho ông N2 tiền thi công cải tạo 02 con đường khoảng 1.231.000.000 đồng.
Hồ Nhật L3, khai:
Tháng 5/2019, ông L3 có quen ông Lê Văn N2 là người môi giới bất động sản tại Quận I và ông N2 có giới thiệu đo vẽ nhà đất để tách thửa cho Trương Thị Kim H tại thửa đất số 1051, tờ bản đồ số 6, phường L, Quận I với giá là 1.000.000 đồng/bản vẽ. Ông L3 đồng ý và tiến hành đo vẽ đất cho Trương Thị Kim H, do bản vẽ phải có xác nhận của đơn vị có chức năng đo vẽ, ông L3 nhờ Công ty Cổ phần T25 ký xác nhận trên bản vẽ. Sau đó, ông L3 lập hồ sơ gồm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản sao y của Trương Thị Kim H do ông Lê Văn N2 cung cấp và 22 bản vẽ đo đạc tách thửa do ông N2 thực hiện và trực tiếp đem hồ sơ đến nộp tại Văn phòng Đ3 để kiểm tra và phê duyệt bản vẽ.
Ngày 09/10/2019, Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I đã kiểm tra phê duyệt bản vẽ giao lại cho ông L3. Ông L3 mang giao lại cho ông Lê Văn N2. Chi phí thực hiện gồm: Tiền phí nộp cho Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I là 100.000 đồng/bản, tổng cộng 2.200.000 đồng, tiền công vẽ là 22.000.000 đồng hiện ông Lê Văn N2 vẫn chưa thanh toán.
Lê Tấn T15, Phó giám đốc Công ty L5 khai:
Cuối năm 2021, Công ty L5 tham gia tư vấn pháp lý phân lô tách thửa khu đất của Trương Thị Kim H và Trương Ng A thuộc thửa 593, 594, 595, 662; tờ bản đồ số 5 tại phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình Công ty L5 tư vấn pháp lý, ông T15 thực hiện các công việc sau: Vẽ sơ đồ phân lô tham khảo khu đất của bà H để bà Hà Thị T14 có cơ sở làm việc, trao đổi, thỏa thuận, ký hợp đồng dịch vụ pháp lý; tham gia cùng với bà T14 thương thảo, thống nhất và ký hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm theo ủy quyền của bà T14; đi cùng Trương Thị Kim H đến Văn phòng Đăng ký đất đai Quận I để nộp sổ đất làm thủ tục lên thổ cư; tham gia cùng với bà T14, Công ty Đ2 đến gặp chủ đất trao đổi tiến độ thực hiện hợp đồng và bàn bạc xung quanh vấn đề về tiền.
Tất cả các lần nhận tiền của khách hàng và các bên liên quan ông T15 không biết và không nhận gì. Khoảng cuối năm 2019 đầu năm 2020, ông T15 nghỉ việc tại Công ty L5 vì không muốn hợp tác với bà T14 và bàn giao toàn bộ hồ sơ, tài liệu liên quan đến công ty cho bà T14.
Phạm Văn N3, khai:
Cuối năm 2019, ông N3 quen biết Trương Thị Kim H thông qua một người bạn giới thiệu, sau đó trước khi đi Mỹ, Trương Thị Kim H có ủy quyền ông N3 thay mặt bà H nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nộp giấy tờ khi Ủy ban nhân dân Quận I yêu cầu; thay mặt bà H tiếp xúc với khách hàng liên quan đến hồ sơ mua bán (chuyển nhượng) bất động sản của bà H tại hẻm G, Võ Văn H4, phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Hồ sơ, thủ tục ủy quyền đều do H thực hiện.
Thực hiện ủy quyền của Trương Thị Kim H, ông N3 đã thay mặt bà H tiếp xúc 01 lần với khách hàng liên quan đến việc mua bán chuyển nhượng bất động sản do Công ty Đ2 tổ chức và sau đó đến nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên của bà H tại Văn phòng Đ3, nhận 16 bản vẽ nội nghiệp do Văn phòng Đăng ký đất đai Quận 9 trả hồ sơ tách thửa do không đủ điều kiện tách thửa. Từ đó cho đến nay, ông N3 không thực hiện thêm việc gì khác cho H. Bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng hiện nay ông N3 đã giao cho người nhà H (không nhớ người giao, không làm giấy tờ văn bản gì). Lý do Văn phòng Đ3 trả hồ sơ tách thửa là do hồ sơ tách thửa của H không đủ điều kiện tách thửa, Ủy ban nhân dân Quận I không thể phân lô, tách thửa được vì các lô phía trong không có đường nội bộ, không đấu nối ra được đường hiện hữu và bản vẽ tách thửa 37 lô chưa được Ủy ban nhân dân Quận phê duyệt. Từ đó cho đến nay, ông N3 cũng không thực hiện thêm các công việc gì khác.
Kết quả trưng cầu giám định: Tại Kết luận giám định số 6284/KLGĐ-TT ngày 09/12/2021 của Phòng K4 Công an Thành phố H, kết luận: Chữ ký, chữ viết Trương Thị Kim H, Lê Văn G trên các tài liệu giám định so với chữ ký, chữ viết của Trương Thị Kim H trên mẫu so sánh là do cùng một người ký, viết ra. Tại Kết luận giám định số 1621/KL-KTHS ngày 12/4/2022 của Phòng K4 Công an Thành phố H, kết luận: Chữ ký Ngô Kim T trên giấy ủy quyền số 01/11/2018/UQ-TT ngày 01/11/2018 và chữ ký Ngô Kim T trên mẫu so sánh do cùng một người ký ra.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 239/2024/HS-ST ngày 21 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ngô Kim T 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/06/2022.
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Văn G 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/03/2022.
Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Buộc các bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G liên đới bồi thường cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt (cụ thể mỗi bị cáo 50% là 14.801.689.000 đồng), chi tiết trả lại cho các bị hại các khoản tiền như sau:
Ông Phan Nhật A2 số tiền 647.127.000 đồng; Bà Phạm Thị Bích P số tiền 1.328.724.000 đồng; Bà Nguyễn Thị Thanh T16 số tiền 1.328.724.000 đồng; Nguyễn Khoa T1 số tiền 1.333.826.000 đồng; Bà Đỗ Thị Thanh T2 số tiền 655.423.500 đồng; Ông Trần K1 số tiền 637.632.000 đồng; Ông Trịnh Trung K2 số tiền 637.632.000 đồng; Ông Phạm Xuân Q số tiền 637.632.000 đồng; Ông Lê Tăng T17 số tiền 672.016.000 đồng; Bà Trang Hồng Đ1 số tiền 637.632.000 đồng; Ông Phan Văn T13 yêu số tiền 2.583.537.000 đồng; Bà Hoàng Ánh T18 số tiền 653.464.000 đồng; Bà Vũ Thị Dân số tiền 1.327.440.000 đồng; Ông Lê Ng T19 số tiền 1.305.870.000 đồng; Ông Hoàng Xuân S2 số tiền 1.344.033.000 đồng; Ông Trần Anh T9 số tiền 3.427.320.000 đồng; Bà Trần Thị Công T20 và ông Tạ Hữu V số tiền 1.309.648.500 đồng; Bà Trương Thị Hồng A3 số tiền 655.423.500 đồng; Ông Trần Cao N số tiền 5.443.850.500 đồng; Ông Nguyễn Hoàng L số tiền 1.310.847.000 đồng; Ông Ngô Anh T21 số tiền 1.725.676.000 đồng.
Các ông bà chưa có đơn tố cáo có thể khởi kiện bị cáo bằng một vụ kiện dân sự khác để yêu cầu bồi thường số tiền.
Dành cho các bị cáo Lê Văn G và Lê Kim T22 quyền khởi kiện yêu cầu Trương Thị Kim H trả lại số tiền mà các bị cáo đã bồi thường cho các bị hại trong số tiền bị chiếm đoạt.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định tiếp tục duy trì Lệnh kê biên số 308-51/LKB-PC03-Đ9 ngày 24/10/2022 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố H và tiếp tục tạm giữ số tiền 400.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo Lê Văn G và Ngô Kim T; xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Cùng ngày 24/5/2024, các bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G kháng cáo cùng nội dung đề nghị xem xét lại vụ án và xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 29/5/2024, ông Trần Vũ T10 là đại diện hợp pháp của các bị hại, gồm các ông (bà): Nguyễn Khoa Tâm, Đỗ Thị Thanh Tâm, Phạm Thị Bích Phượng, Trịnh T Nhật Anh, Trần Thị Công Tâm T, H5; bị hại ông Trần Anh T9, ông Trần K1 kháng cáo cùng nội dung:
Về trách nhiệm hình sự: Phải buộc Trương Ng A, Trương Hoàng G2 (là chồng, con của Trương Thị Kim H) và Hà Thị T14 phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm trong vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2, Ngô Kim T và Lê Văn G phải cùng bồi thường cho các bị hại, cụ thể bồi thường như sau: Ông T20 3.199.000.000 đồng, bà Đỗ Thị Thanh T2 1.566.642.165 đồng, ông Trần K1 1.529.487.000 đồng, bà P 3.324.571.740 đồng, Ông Trịnh Trung K2 1.529.487.000 đồng, ông T9 9.261.640.000 đồng, bà T16 3.921.110.000 đồng, ông A3 1.544.692.149 đồng, bà Trần Thị Công T20 3.326.507.000 đồng, ông S2 3.492.078.375 đồng, ông T21 9.180.596.320 đồng, bà A3 1.725.676.000 đồng, ông L 3.329.551.000 đồng, bà T18 2.186.263.870 đồng.
Đề nghị phát mãi tài sản của Trương Thị Kim H để bảo đảm thi hành án.
Ngày 04/6/2024, ông Trần Quang N1 là đại diện hợp pháp của ông Trần Cao N kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G và đề nghị phát mãi tài sản để đảm bảo thi hành án.
Cùng ngày 04/6/2024, ông Lê Tăng T17, ông Phạm Xuân Q kháng cáo yêu cầu trả cho ông T17 1.661.559.560 đồng và ông Q 1.529.487.878 đồng.
Ngày 04/6/2024, bà Trang Hồng Đ1, ngày 06 và 07/6/2024, bà Hoàng Ánh T18 và ông Tạ Hữu V kháng cáo cùng nội dung về trách nhiệm hình sự: Phải buộc Trương Ng A, Trương Hoàng G2 (là chồng, con của Trương Thị Kim H) và Hà Thị T14 phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm trong vụ án. Về trách nhiệm dân sự: Buộc Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2, Ngô Kim T và Lê Văn G phải cùng bồi thường cho các bị hại, cụ thể bồi thường cho bà Đ1 1.823.940.480 đồng, bà T18 1.532.799.870 đồng, ông V 1.637.632.000 đồng.
Tại phiên tòa, các bị cáo rút kháng cáo phần trách nhiệm hình sự, đề nghị xem xét số tiền ký quỹ 6 tỷ đồng cho Trương Thị Kim H.
Bị hại giữ nguyên kháng cáo và trình bày:
Ông Trần Quang N1 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử phát mãi tài sản của Trương Thị Kim H để thanh toán số tiền cho bị hại. Do các bị cáo T, G rút kháng cáo phần trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Ông Phạm Xuân Q và ông Lê Tăng T17 trình bày: Yêu cầu phạt cọc, tiền lãi 9%/số tiền đặt cọc/thời gian trễ hợp đồng; Buộc Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2 cùng các bị cáo phải liên đới bồi thường và phát mãi tài sản của H để thanh toán số tiền cho bị hại.
Ông Tạ Hữu V, bà Trần Thị Công T20, bà Hoàng Ánh T18, bà Trang Hồng Đ1 trình bày: Yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2, Hà Thị T14 và buộc Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2 cùng bị cáo trả tiền đặt cọc, bồi thường vi phạm hợp đồng và phát mãi tài sản của H để thanh toán số tiền cho bị hại.
Ông Trần Vũ T10 đại diện cho các ông (bà): Nguyễn Khoa Tâm, Đỗ Thị Thanh Tâm, Phạm Thị Bích Phượng, Trịnh T23 Kiên, Nguyễn Thị Thanh Trước, Phan Nhật Anh, Tạ H, Trần Thị C2 Tâm, Hoàng Xuân Sơn, Ngô Anh Thư, Trương Thị Hồng Anh, Nguyễn Hoàng L4, Hoàng Ánh Tuyết, ông T, ông Trần Anh T9 trình bày: Yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2, Hà Thị T14 và buộc Trương Kim H, Trương Ng A, Trương Hoàng G2 cùng bị cáo trả tiền đặt cọc, bồi thường vi phạm hợp đồng và phát mãi tài sản của H để thanh toán số tiền cho bị hại.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, các bị cáo và các bị hại đã tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo hợp lệ, đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo đã rút kháng cáo phần trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo.
Về phần dân sự: Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã tuyên hai bị cáo được quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Trương Thị Kim H bồi thường lại số tiền 23.938.360.000 đồng mà Trương Thị Kim H đã nhận của các bị cáo và tiếp tục duy trì lệnh kê biên. Xét thấy, quyền này là phù hợp với quy định của pháp luật và tài sản kê biên này đã đảm bảo thi hành án cho các bị cáo và bị cáo có trách nhiệm trả lại tiền cho các bị hại là phù hợp.
Đối với kháng cáo của các bị hại:
Trong vụ án này các bị cáo Lê Văn G, Ngô Kim T đã dùng thủ đoạn gian dối ký hợp đồng đặt cọc với các bị hại khi chưa đủ điều kiện mua bán, các hợp đồng đặt cọc này đều vô hiệu do xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật nên có căn cứ buộc các bị cáo phải hoàn trả lại số tiền đã chiếm đoạt tương ứng cho các bị hại theo các hợp đồng đã ký là đúng. Trương Thị Kim H đã bị khởi tố nhưng đã bỏ trốn và đang bị truy nã, hiện chưa bắt được nên phần trách nhiệm dân sự hai bị cáo phải liên đới bồi thường và các bị cáo có trách nhiệm khi phát mãi tài sản của H sẽ trả lại cho các bị hại theo đúng quy định pháp luật.
Đối với Hà Thị T14, có hành vi ủy quyền cho Lê Văn T24, Phó giám đốc ký hợp đồng dịch vụ pháp lý và ký Hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền và tự vẽ bản đồ phân lô 37 nền, từ đó tạo điều kiện cho Trương Thị Kim H bán các sản phẩm bất động sản cho khách hàng. Tuy nhiên, tài liệu, chứng cứ thu thập được thể hiện sau khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, mặc dù thực hiện không đúng tiến độ như hợp đồng đã ký kết nhưng Hà Thị Thanh c thực hiện công việc như thỏa thuận để tách thửa đất như: Chuyển mục đích đất từ trồng lúa lên thổ cư cho hộ bà H, cải tạo thi công hạ tầng 02 tuyến đường hiện hữu; Đo vẽ 19 thửa đất tiếp giáp 02 tuyến hẻm và nộp bản vẽ đến Văn phòng Đ3 để kiểm tra nội nghiệp xin tách thửa, lý do không tách thửa được bà T14 trình bày do H không hợp tác nhưng hiện nay H đã bỏ trốn nên không làm rõ được.
Ngoài ra, Hà Thị T14 không trực tiếp đưa ra thông tin gian dối cho khách hàng, không ký hợp đồng đặt cọc và thu tiền của khách hàng nên chưa đủ cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự đối với Hà Thị T14 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm, giúp sức. Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ xem xét trách nhiệm của Hà Thị T14, sau khi bắt được Trương Thị Kim H.
Đối với Trương Văn A4 và Trương Văn G4 là chồng và con của Trương Thị Kim H: Xét thấy H đã khởi tố, hiện nay chưa lấy được lời khai, chưa làm rõ được vai trò đồng phạm. Do đó, Cơ quan điều tra đã tách ra để xem xét xử lý sau là phù hợp với pháp luật. Việc bồi thường được tách ra và xử lý sau khi bắt được H và thu thập thêm các tài liệu khác chứ không phải không xử lý. Với các cơ sở nêu trên, cơ quan điều tra chưa xử lý vai trò đồng phạm của các đối tượng trên là có cơ sở và tiếp tục xử lý sau.
Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo T, G4 và không chấp nhận kháng cáo của các bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày:
Bị cáo đã tự nguyện rút kháng cáo phần trách nhiệm hình sự tại phiên tòa, nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo.
Theo Bản án sơ thẩm thì các bị cáo có quyền khởi kiện yêu cầu Trương Thị Kim H trả lại số tiền 23.938.360.000 đồng mà H đã nhận của các bị cáo. Như vậy, quyền khởi kiện này chỉ phát sinh khi các bị cáo bồi thường xong số tiền hơn 5.665.018.000 đồng và 23.938.360.000 đồng. Các bị cáo là lao động chính, hoàn cảnh khó khăn nên quyền khởi kiện này khó thực hiện được. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm dành quyền khởi kiện cho các bị cáo yêu cầu bà H trả lại số tiền mà các bị cáo đã bồi thường cho các bị hại trong số tiền chiếm đoạt, số tiền thực tế bồi thường bao nhiêu thì phát sinh quyền khởi kiện bấy nhiêu.
Số tiền 6 tỷ đồng mà các bị cáo ký quỹ chưa nêu tại bản án sơ thẩm, đây là một trong những vấn đề mấu chốt để tạo điều kiện cho các bị cáo có thể khởi kiện bà H số tiền này và nếu số tiền này được khởi kiện thì tài sản của bà H sẽ được phát mãi và các bị cáo sẽ trả lại tiền cho các bị hại, sau đó tiếp tục khởi kiện về số tiền đã giao cho bà H. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử sửa án theo hướng dành quyền khởi kiện cho bị cáo G4, T yêu cầu bà H trả lại số tiền ký quỹ 6 tỷ đồng.
Ngoài ra, các bị hại có quyền khởi kiện cả Trương Thị Kim H, Hà Thị T14, Trương Văn A4 nếu như thấy rằng họ có hành vi chiếm đoạt, nhận tiền không trả theo các hợp đồng đặt cọc.
Tại bản án sơ thẩm xác định bị cáo G4, T có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho các bị hại số tiền chiếm đoạt là không đúng do đây là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người chiếm đoạt có trách nhiệm hoàn trả lại tài sản theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, có cơ sở xác định bà H đã nhận tiền trực tiếp từ một số bị hại, còn lại nhận thông qua bị cáo G4 và T, quá trình điều tra, truy tố đã làm rõ số tiền này, các bị cáo chỉ giữ lại một phần rất nhỏ đã được quy kết là chiếm hữu riêng rồi. Trong trường hợp này xác định người có nghĩa vụ hoàn trả cho các bị hại phải là người chiếm hữu cuối cùng là bà H thì mới phù hợp với quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét phát mãi tài sản của bà H vì các lý do sau:
Thứ nhất, tài sản này là vật chứng của vụ án;
Thứ hai, mặc dù bà H không bị xét xử vắng mặt trong vụ án này nhưng có đủ cơ sở để xác định bà H có hành vi phạm tội, bản án sơ thẩm xác định G4, T là đồng phạm tiếp sức cho bà H đồng nghĩa xác định bà H có hành vi phạm tội, hành vi của bà H đã được chứng minh rất rõ trong hồ sơ vụ án.
Ngoài ra, trong trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận việc xử lý tài sản của bà H do chưa bắt được bà H thì kiến nghị đến các cơ quan tố tụng tiến hành truy tố, xét xử vắng mặt đối với bà H. Trên cơ sở đó có thể xử lý tài sản của bà H để bồi thường thiệt hại cho các bị hại và các bị cáo.
Các bị hại thống nhất trình bày: Trong vụ án này, Trương Thị Kim H là người khởi xướng, chủ mưu việc lừa đảo để chiếm đoạt tiền của bị hại, Trương Ng A, Trương Hoàng G2 và Hà Thị T14 cũng tham gia nên phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm. Ngoài ra, trong số tiền chiếm đoạt thì Trương Thị Kim H nhận một phần, còn lại các bị cáo nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buộc các bị cáo trả lại số tiền theo bản án sơ thẩm cho các bị hại mà tuyên các bị hại được quyền khởi kiện NHẬN thanh toán tiền cho các bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Bị cáo và các bị hại kháng cáo đúng quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự là đúng pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G đã tự nguyện rút kháng cáo nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 342, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G.
[4] Xét kháng cáo của các bị hại:
[4.1] Như nội dung trên thì bị cáo T, G đã rút kháng cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của ông Trần Quang N1 (là đại diện hợp pháp của bị hại Trần Cao N).
[4.2] Đối với kháng cáo của các bị hại, gồm các ông (bà): Nguyễn Khoa Tâm, Đỗ Thị Thanh Tâm, T26, Hoàng Ánh Tuyết, Trang H, Hoàng Ánh T18, Tạ Hữu V, Lê Tăng T17, Phạm Xuân Q, thấy rằng:
[4.2.1] Trương Thị Kim H đứng tên thửa đất số 1052, tờ bản đồ số 6 tại phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, mục đích sử dụng là đất lúa. Mặc dù chưa được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đầu tư dự án khu dân cư, không đủ điều kiện để phân phối các sản phẩm bất động sản nhưng từ tháng 01/2019 đến tháng 4/2019, Trương Thị Kim H đã tự ý ký hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền sản phẩm với Công ty Đ2 do Lê Văn G, Phó Giám đốc Công ty Đ2 là đại diện (Theo ủy quyền của Ngô Kim T, Giám đốc Công ty Đ2). Trương Thị Kim H cùng với Lê Văn G ký 29 hợp đồng đặt cọc, bán 29 đất nền cho 22 khách hàng, với giá từ 38.000.000 đồng/m² đến 40.500.000 đồng/m², thu tiền của khách hàng từ 30% đến 60% giá trị hợp đồng.
Trong đó, bị cáo Lê Văn G và Ngô Kim T đã dùng thủ đoạn gian dối như: Quảng cáo, đưa ra các thông tin không đúng sự thật làm cho các bị hại tin tưởng ký hợp đồng đặt cọc để chiếm đoạt của 22 bị hại tổng số tiền 29.603.378.000 đồng, cụ thể như sau:
Ông Phan Nhật A2 647.127.000 đồng, bà Phạm Thị Bích P 1.328.724.000 đồng, bà Nguyễn Thị Thanh T16 1.328.724.000 đồng, bà Nguyễn Khoa T1 1.333.826.000 đồng, bà Đỗ Thị Thanh T2 655.423.500 đồng, ông Trần K1 637.632.000 đồng, ông Trịnh Trung K2 637.632.000 đồng, ông Phạm Xuân Q 637.632.000 đồng, ông Lê Tăng T17 672.016.000 đồng, bà Trang Hồng Đ1 637.632.000 đồng, ông Phan Văn T13 2.583.537.000 đồng, bà Hoàng Ánh T18 653.464.000 đồng, bà Vũ Thị D 1.327.440.000 đồng, ông Lê Ng T19 1.305.870.000 đồng, ông Hoàng Xuân S2 1.344.033.000 đồng, ông Trần Anh T9 3.427.320.000 đồng, bà Trần Thị Công T20 và ông Tạ Hữu V số tiền 1.309.648.500 đồng, bà Trương Thị Hồng A3 655.423.500 đồng, ông Trần Cao N 5.443.850.500 đồng, ông Nguyễn Hoàng L 1.310.847.000 đồng, ông Ngô Anh T21 1.725.676.000 đồng.
[4.2.2] Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã tiến hành các thủ tục tố tụng đối với Trương Thị Kim H. Tuy nhiên, do Trương Thị Kim H không có mặt tại địa điểm cư trú, không xác định rõ bị can đang ở đâu nên ngày 14/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra quyết định truy nã, đồng thời ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với Trương Thị Kim H và sẽ khôi phục điều tra sau khi bắt được bị can là đúng quy định pháp luật.
[4.2.3] Quá trình tố tụng, ngày 26/12/2023, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 469/2023/QĐ/HSST-QĐ để làm rõ vai trò của bà Hà Thị T14 và những người liên quan khác có đồng phạm với bị cáo T, G trong vụ án hay không? Kết quả điều tra lại đã xác định: Hà Thị T14, giám đốc Công ty TNHH L6 đã có hành vi ủy quyền cho ông Lê Tấn T15, Phó Giám đốc ký hợp đồng dịch vụ pháp lý và ký hợp đồng ký quỹ và phân phối độc quyền và tự vẽ bản đồ phân lô 37 nền từ đó tạo điều kiện cho Trương Thị Kim H, Công ty Đ2 bán các sản phẩm bất động sản cho khách hàng. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý trên thì Hà Thị Thanh c thực hiện công việc đã thỏa thuận để tách thửa đất như: Chuyển mục đích đất từ trồng lúa lên thổ cư cho hộ Trương Thị Kim H; Cải tạo thi công hạ tầng 02 tuyến đường hiện hữu; Đo vẽ 19 thửa đất tiếp giáp 02 tuyến hẻm và nộp bản vẽ đến Văn phòng Đ3 để kiểm tra nội nghiệp xin tách thửa. Quá trình xác minh, Hà Thị T14 trình bày lý do không tách thửa được là do Trương Thị Kim H không hợp tác nhưng hiện nay Trương Thị Kim H đã bỏ trốn nên không làm rõ được. Ngoài ra, Hà Thị T14 không trực tiếp đưa ra thông tin gian dối cho khách hàng, không ký hợp đồng đặt cọc và thu tiền của khách hàng nên chưa đủ cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự đối với Hà Thị T14 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm, giúp sức. Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ xem xét trách nhiệm của Hà Thị T14, Trương Văn A4 sau khi bắt được Trương Thị Kim H.
[4.2.4] Kết quả điều tra xác định: Các bị cáo G và T đã dùng thủ đoạn gian dối, ký hợp đồng đặt cọc bán đất nền cho các bị hại khi chưa đủ điều kiện mua bán. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các hợp đồng đặt cọc này vô hiệu do xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật của các bị cáo gây ra nên chỉ buộc các bị cáo T, G hoàn trả cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt tương ứng với các hợp đồng đã ký, trong đó xác định nghĩa vụ của T, G, mỗi bị cáo phải trả lại 50% số tiền các bị hại đã đặt cọc là có căn cứ, đúng pháp luật. Việc các bị hại yêu cầu các bị cáo phải trả gấp đôi số tiền đặt cọc hoặc chịu lãi suất 9%/số tiền đã nhận hoặc bồi thường thiệt hại là không có căn cứ.
[4.2.5] Trong vụ án này, Trương Thị Kim H và một số đối tượng khác có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do chưa làm rõ được hành vi của Trương Thị Kim H, Trương Ng A, Hà Thị T14 và các đối tượng khác nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố H đã ban hành Lệnh kê biên số 308- 51/LKB-PC03-Đ9 ngày 24/10/2022 đối với các thửa đất số 593,594,595,662 Tờ bản đồ số 05 (nay là thửa đất số 1051, tờ bản đồ số 6) phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CN255728 do Ủy ban nhân dân Quận I (nay là thành phố T) cấp ngày 23/4/2019; Giao cho Ủy ban nhân dân phường L, thành phố T quản lý cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền do Trương Thị Kim H đang bị truy nã là có căn cứ.
[4.2.6] Những người đặt cọc mua nền đất được xác định là bị hại trong vụ án, không phải là nguyên đơn dân sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc các bị cáo trả lại số tiền đã chiếm đoạt là có căn cứ nên yêu cầu kháng cáo của các bị hại đề nghị được quyền khởi kiện Trương Thị Kim H để bồi thường do H có dấu hiệu đồng phạm trong vụ án này là không có cơ sở.
[4.2.7] Mặc dù, thửa đất số 593, 594, 595, 662 tờ bản đồ số 05 tại phường L, thành phố T có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên, các tài sản này là của vợ chồng Trương Thị Kim H và Trương Ng A nhưng những đối tượng này chưa bị xử lý về hình sự trong vụ án nên không thể phát mãi tài sản trên để thanh toán cho các bị hại do bản án sơ thẩm không xác định Trương Thị Kim H và Trương Ng A có nghĩa vụ trả lại số tiền cho các bị hại, bị cáo.
[4.2.8] Công ty Đ2 do Ngô Kim T là đại diện theo pháp luật có ký Hợp đồng ký quỹ số tiền 6 tỷ đồng để được phân phối độc quyền sản phẩm với Trương Thị Kim H. Quá trình thực hiện, các bị cáo đã chuyển cho H một số tiền nhưng do chưa xác định được hành vi phạm tội của H nên Tòa án cấp sơ thẩm dành cho các bị cáo quyền khởi kiện yêu cầu Trương Thị Kim H trả lại số tiền mà các bị cáo đã bồi thường cho các bị hại trong số tiền bị chiếm đoạt là phù hợp. Đối với số tiền ký quỹ 6 tỷ đồng của Công ty Đ2 sẽ được xem xét khi cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm của Trương Thị Kim H.
[4.2.9] Mặc dù, Trương Thị Kim H có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đã được cơ quan điều tra xem xét. Tuy nhiên, do lệnh truy nã đối với Trương Thị Kim H chưa có kết quả nên việc xử lý về trách nhiệm hình sự H sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[4.2.10] Như vậy, Trương Thị Kim H chưa bị xem xét trách nhiệm hình sự trong vụ án này. Đồng thời, bản án sơ thẩm cũng không buộc H phải chịu trách nhiệm dân sự trong vụ án nên Tòa án cấp sơ thẩm không thể xử lý tài sản của H đã được cơ quan điều tra kê biên để thực hiện nghĩa vụ dân sự cho các bị cáo là đúng quy định.
[4.2.11] Việc xử lý trách nhiệm hình sự vắng mặt Trương Thị Kim H thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử. Những người bị hại trong vụ án có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối với H theo quy định pháp luật.
[5] Từ những nội dung nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G; Không chấp nhận kháng cáo của các bị hại, gồm các ông (bà): Trần Quang N1 (đại diện hợp pháp của bị hại Trần Cao N), Nguyễn K3 Tâm, Đỗ Thị Thanh Tâm, T26, Trang Hồng Đ1, Hoàng Ánh T18, Tạ Hữu V, Lê Tăng T17, Phạm Xuân Q.
[6] Các bị cáo T, G không phải chịu án phí phúc thẩm. Ông Trần Quang N1 (là đại diện hợp pháp của bị hại Trần Cao N) không phải chịu án phí phúc thẩm. Các bị hại kháng cáo phần trách nhiệm dân sự nhưng không được chấp nhận phải chịu án phí phúc thẩm.
[7] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G.
2. Không chấp nhận kháng cáo của các ông (bà): Trần Cao N, Nguyễn K3 Tâm, Đỗ Thị Thanh Tâm, T26, Trang Hồng Đ1, Hoàng Ánh T18, Tạ Hữu V, Lê Tăng T17, Phạm Xuân Q.
3. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 239/2024/HS-ST ngày 21 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tiếp tục tạm giam bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G để bảo đảm thi hành án.
5. Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, buộc các bị cáo Ngô Kim T, Lê Văn G liên đới bồi thường cho các bị hại số tiền đã chiếm đoạt, cụ thể mỗi bị cáo phải trả là 50% số tiền 14.801.689.000 (Mười bốn tỷ, tám trăm lẻ một triệu, sáu trăm tám mươi chín nghìn) đồng, chi tiết trả lại cho các bị hại như sau:
5.1. Ông Phan Nhật A2 số tiền 647.127.000 đồng; 5.2. Bà Phạm Thị Bích P số tiền 1.328.724.000 đồng; 5.3. Bà Nguyễn Thị Thanh T16 số tiền 1.328.724.000 đồng; 5.4. Ông Nguyễn Khoa T1 số tiền 1.333.826.000 đồng; 5.5. Bà Đỗ Thị Thanh T2 số tiền 655.423.500 đồng; 5.6. Ông Trần K1 số tiền 637.632.000 đồng; 5.7. Ông Trịnh Trung K2 số tiền 637.632.000 đồng; 5.8. Ông Phạm Xuân Q số tiền 637.632.000 đồng; 5.9. Ông Lê Tăng T17 số tiền 672.016.000 đồng; 5.10. Bà Trang Hồng Đ1 số tiền 637.632.000 đồng; 5.11. Bà Hoàng Ánh T18 số tiền 653.464.000 đồng; 5.12. Ông Hoàng Xuân S2 số tiền 1.344.033.000 đồng; 5.13. Ông Trần Anh T9 số tiền 3.427.320.000 đồng; 5.14. Bà Trần Thị Công T20 và ông Tạ Hữu V số tiền 1.309.648.500 đồng; 5.15. Bà Trương Thị Hồng A3 số tiền 655.423.500 đồng; 5.16. Ông Trần Cao N số tiền 5.443.850.500 đồng; 5.17. Ông Nguyễn Hoàng L số tiền 1.310.847.000 đồng; 5.18. Ông Ngô Anh T21 số tiền 1.725.676.000 đồng.
6. Tiếp tục duy trì Lệnh kê biên số 308-51/LKB-PC03-Đ9 ngày 24/10/2022 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố H và biên bản kê biên ngày 24/10/2022 đối với các thửa đất số 593, 594, 595, 662 Tờ bản đồ số 05 (nay là thửa đất số 1051, tờ bản đồ số 6) phường L, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CN255728 do Ủy ban nhân dân Quận I (nay là Thành phố T) cấp ngày 23/4/2019. Tiếp tục giao cho Ủy ban nhân dân phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền do Trương Thị Kim H đang bị truy nã (Theo biên bản kê biên tài sản ngày 24/10/2022 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố H).
7. Tiếp tục tạm giữ số tiền 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2023/00001139 và số AA/2023/00001140 ngày 08/12/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo Lê Văn G và Ngô Kim T.
8. Các bị hại trong vụ án chưa có đơn tố cáo có quyền khởi kiện các bị cáo bằng vụ kiện dân sự khác để yêu cầu bồi thường số tiền bị chiếm đoạt.
9. Dành cho các bị cáo Lê Văn G và Ngô Kim T quyền khởi kiện yêu cầu Trương Thị Kim H trả lại số tiền mà các bị cáo đã bồi thường cho các bị hại trong số tiền bị chiếm đoạt.
10. Về án phí hình sự phúc thẩm: 10.1. Các bị cáo Ngô Kim T và Lê Văn G không phải chịu. 10.2. Ông Trần Quang N1 (là đại diện hợp pháp của bị hại Trần Cao N) không phải chịu án phí phúc thẩm. 10.3 Các ông (bà): Nguyễn Khoa Tâm, Đỗ Thị Thanh Tâm, T26, Hồ N, Hoàng Ánh T18, Tạ Hữu V, Lê Tăng T17, Phạm Xuân Q, mỗi người phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.
11. Xử lý vật chứng theo Bản án hình sự sơ thẩm số 239/2024/HS-ST ngày 21 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
13. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
14. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
15. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 964/2024/HS-PT
Số hiệu: | 964/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về