Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 95/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 95/2022/HS-PT NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2022/TLPT-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Tô Tú A do có kháng cáo của bị hại Hồ Mỹ Nh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Tô Tú A, sinh năm 1975, tại Cà Mau; nơi cư trú: Ấp T, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Thu V và bà Nguyễn Thị H; có chồng tên Nguyễn Hoàng T (đã chết) và có 01 người con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt.

- Bị hại có kháng cáo: Bà Hồ Mỹ Nh, sinh năm 1979 (có mặt) Nơi cư trú: Ấp T, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mau

- Bị hại không có kháng cáo (không được Tòa án triệu tập), gồm có:

1. Bà Từ Cẩm T1, sinh năm 1978

2. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1968

3. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1964

4. Bà Trịnh Thị Đ, sinh năm 1964

5. Bà Tô Hồng C1, sinh năm 1977

6. Ông Tô Tín Ngh, sinh năm 1974

7. Bà Trần Thị T2, sinh năm 1952

8. Bà Nguyễn Thị Nh1, sinh năm 1953

9. Bà Trương Thị M, sinh năm 1976

10. Bà Từ Sương Ch, sinh năm 1979

11. Ông Nguyễn Văn M1, sinh năm 1972

12. Ông Tô M1 Kh, sinh năm 1968

13. Bà Từ Thị Nh2, sinh năm 1977

14. Bà Trương Thị H1, sinh năm 1981

15. Bà Nguyễn Thanh B, sinh năm 1956 Cùng nơi cư trú: Ấp T, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mau

16. Bà Nguyễn Hồng Ph, sinh năm 1982 Nơi cư trú: Ấp 6, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

17. Bà Tô Mỹ A1, sinh năm 1971

18. Bà Đào Ngọc Đ1, sinh năm 1967

19. Bà Trần Thị K1, sinh năm 1976 Cùng nơi cư trú: Ấp T, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trước năm 2000, Tô Tú A bắt đầu đứng ra tổ chức làm chủ hụi, mở các dây hụi tháng. Mỗi dây hụi, bị cáo tham gia 01 đến 02 chân (chưng). Trong quá trình làm chủ hụi, bị cáo mở nhiều dây hụi, có những dây hụi đã mãn, có dây chưa. Trong số các dây hụi bị cáo mở, có 02 dây, ngoài việc đã hốt hết các chân hụi của mình tham gia thì bị cáo còn có hành vi lợi dụng việc một số hụi viên không đi bỏ thăm để tự ý hốt hụi và có hành vi nói với các hụi viên là có hụi viên trong dây hụi cần tiền kêu bán hụi, các hụi viên tin là thật nên đưa tiền cho bị cáo để bị cáo chiếm đoạt tiền của các hụi viên, cụ thể:

Đối với dây hụi ngày 03/3/2017 (nhằm 06/02/2017 âm lịch): Loại hụi 1.000.000 đồng, một tháng khui một lần, tổng số 29 chân, đã khui được 28 lần, có 22 chân được hốt, bị cáo tham gia 01 chân, đã hốt 01 chân ở kỳ thứ 2.

Ngoài việc hốt chân hụi của mình tham gia thì bị cáo còn tự ý hốt 05 chân của hụi viên bằng thủ đoạn mạo tên của các hụi viên gồm “Út Trí” (Phạm Thị N), “6 Ảnh” (Trần Thị T2), “Ba Phương” (Trần Thị Đ1), “Cường” (Tô Mỹ A1), “6 B” (Nguyễn Thanh B), với tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt là 126.450.000 đồng, cụ thể các lần như sA1u:

- Kỳ hụi thứ 8: ngày 06/9/2017 âm lịch (nhằm ngày 25/10/2017 dương lịch), (ký tên hụi viên “Út Trí”), bỏ thăm 200.000 đồng, chiếm đoạt: Chết 7 kỳ (trừ chủ hụi 01 chân) gom được 6 chân hụi chết tổng số tiền: 6 chân x 1.000.000 đồng = 6.000.000 đồng. Hụi sống 22 chân x 800.000 đồng = 17.600.000 đồng.

Tổng số tiền gom được của kỳ hụi này là 23.600.000 đồng.

- Kỳ hụi thứ 18: Ngày 06/7/2018 âm lịch (nhằm ngày 16/8/2018 dương lịch), (ký tên hụi viên “6 Ảnh”), bỏ 200.000 đồng, chiếm đoạt: Chết 17 kỳ (trừ 01 kỳ chủ hụi tự ý hốt, chủ hụi hốt 01 chân) gom được 15 chân hụi chết x 1.000.000 đồng = 15.000.000 đồng. Hụi sống 13 kỳ x 800.000 đồng = 10.400.000 đồng.

Tổng số tiền gom được của kỳ này là 25.400.000 đồng - Kỳ hụi thứ 25: ngày 06/3/2019 âm lịch (nhằm ngày 10/4/2019 dương lịch), (ký tên hụi viên “3 Phương”), bỏ thăm 200.000 đồng, chiếm đoạt: Chết 24 kỳ (trừ 2 kỳ chủ hụi tự hốt, 01 kỳ chủ hụi hốt) gom được 21 chân hụi chết x 1.000.000 đồng = 21.000.000 đồng. Hụi sống 07 kỳ x 800.000 đồng = 5.600.000 đồng.

Tống số tiền gom được của kỳ này là 26.600.000 đồng.

- Kỳ hụi thứ 26, ngày 06/4/2019 âm lịch (nhằm ngày 10/5/2019 dương lịch), (ký tên hụi viên là Cường), bỏ thăm 250.000 đồng, chiếm đoạt: Hụi chết 25 kỳ (trừ 03 kỳ chủ hụi tự hốt, 01 chân của chủ hụi) gom được 21 chân hụi chết x 1.000.000 đồng = 21.000.000 đồng. Hụi sống 07 kỳ x 750.000 đồng = 5.200.000 đồng.

Tổng số tiền gom được của kỳ này là 26.250.000 đồng.

- Kỳ hụi thứ 28, ngày 06/5/2019 âm lịch (nhằm ngày 10/4/2019 dương lịch), của bà Nguyễn Thanh B (ký tên hụi viên “6 B”) bỏ thăm 400.000 đồng, chiếm đoạt: Chết 27 kỳ (trừ 04 kỳ chủ hụi tự hốt, 01 kỳ chủ hụi hốt, 01 kỳ hụi viên chưa đóng) gom được 21 chân hụi chết x 1.000.000 đồng = 21.000.000 đồng. Hụi sống 06 kỳ x 600.000 đồng = 3.600.000 đồng.

Tổng số tiền gom được của kỳ này là 24.600.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của các bị hại trong dây hụi này là 126.450.000 đồng.

Dây hụi này có 05 hụi viên (06 chân) đóng hụi sống nhưng chưa được hốt là Trần Thị K1, mua 01 chân hụi, số tiền 20.500.000 đồng. Đào Ngọc Đ1, mua 01 chân hụi, tham gia 01 chân, đóng hụi sống 28 kỳ với số tiền 42.500.000 đồng. Tô Mỹ A1, tham gia 01 chân, đóng hụi sống 28 kỳ với số tiền 22.400.000 đồng.

Nguyễn Thanh B, tham giA1 01 chân, đóng 28 kỳ với số tiền 21.550.000 đồng.

Từ Thị Nh2, tham gia 01 chân, đóng 28 kỳ với số tiền 16.550.000 đồng.

Đối với dây hụi ngày 26/11/2018 (25/10/2018 Al): Loại hụi 1.000.000 đồng, tháng khui một lần, tổng số 25 chân, đã khui 07 lần (trong đó có 07 chân được hốt). Dây hụi này bị cáo tham gia 01 chân, đã hốt 01 chân.

Dây hụi này bị cáo có hành vi gian dối tự ý lấy 01 chân hụi của hụi viên Tô Minh Kh bán cho bà Đào Ngọc Đ1 chiếm đoạt số tiền 16.900.000 đồng.

Như vậy, bị cáo có hành vi gian dối trong việc hốt hụi khống và bán hụi khống ở hai dây hụi để chiếm tổng số tiền 143.350.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã quyết định: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tú A 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 12/5/2022, bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo. Nhưng đến ngày 03/6/2022 bị cáo có đơn xin rút đơn kháng cáo.

Ngày 13/5/2022, bị hại Hồ Mỹ Nh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.

Tại phiên tòà phúc thẩm:

- Bị hại Nh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Nh, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2022/HS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau về phần hình phạt đối với bị cáo.

- Bị hại Nh trình bày: Do bị cáo không thanh toán các khoản tiền nợ hụi nên đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.

- Lời nói sau cùng của bị cáo Tú A: Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét kháng cáo của bà Nh theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đối với bị cáo có kháng cáo nhưng sau đó đã rút đơn kháng cáo trước khi mở phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 342 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án cấp phúc thẩm đã ra thông báo về việc bị cáo rút đơn kháng cáo. Đối với kháng cáo của bị hại được giải quyết theo thủ tục chung.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận: Trong thời gian Tô Tú A làm chủ hụi, do phải trả tiền nợ vay bên ngoài và tiền lấp hụi, chung hụi cho những dây hụi đã mãn, chưa mãn của các hụi viên, nên tại dây hụi 01 triệu đồng mở ngày 03/3/2017 (nhằm 06/02/2017 âm lịch), một tháng khui một lần, Tú A đã tự ý hốt 05 chân hụi để chiếm đoạt tiền hụi của các hụi viên với tổng số tiền là 126.450.000 đồng và tại dây hụi mở ngày 26/11/2018 (nhằm ngày 25/10/2018 âm lịch), Tú A đã bán khống 01 chân hụi cho bà Đào Ngọc Đ1 để chiếm đoạt 16.900.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của các hụi viên trong 02 dây hụi là 143.350.000 đồng. Với những tình tiết này, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã xét xử bị cáo Tú A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của các hụi viên được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật, phạm tội thì phải bị xử lý và chịu hình phạt theo pháp luật hình sự.

[4] Quá trình xét xử, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên và xác định các giảm nhẹ cho bị cáo, gồm: Đã bồi thường được một phần thiệt hại; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Sau khi đình hụi, giữa bị cáo với một số bị hại đã đối trừ nợ hụi sống, hụi chết với hụi viên. Một số bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ đó, xử phạt bị cáo 02 năm 03 tháng tù là tương xứng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Nh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo vì cho rằng bị cáo không thanh toán cho bà các khoản nợ tiền hụi. Lý do này không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bà Nh.

[5] Với các tình tiết nêu trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa được chấp nhận.

[6] Bà Nh không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[7] Các phần khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị, đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 củA1 Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Hồ Mỹ Nh về việc đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Tô Tú A; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2022/HS- ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau về phần hình phạt.

2. Xử phạt bị cáo Tú A 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Bà Hồ Mỹ Nh không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 95/2022/HS-PT

Số hiệu:95/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;