Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 90/2024/HS-ST NGÀY 17/08/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2024/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2024/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2024 đối với bị cáo:

Phan Công L, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 01/03/2000 tại Đà Nẵng; nơi cư trú: Tổ 46, phường N, quận C, TP.ĐN; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Con ông: Phan Công T (Sinh năm: 1971); con bà: Nguyễn Thị C (Sinh năm: 1971); Gia đình có 04 anh chị em. Bị can là con thứ 3; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/01/2024 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố ĐN. Có mặt tại phiên tòa.

* Người phiên dịch: Ông Ngô Vũ P, phiên dịch viên tiếng Nga thuộc Trung tâm phục vụ đối ngoại, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

* Bị hại:

1. Ông Lê S, sinh năm 2003; Nơi cư trú: K158/71 TCV, phường TT, quận TK, thành phố ĐN. Có mặt

2. Ông Lê Văn S, sinh năm 2006; Nơi cư trú: Phòng 1201 Chung cư 12T3, đường BDL, phường NHĐ, quận ST, thành phố ĐN. Có mặt

. Ông Huỳnh Đức H, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Phòng 107 khu cc B2, phường HX, quận CL, thành phố ĐN. Vắng mặt

4. Bà PA, sinh ngày 6/6/1999; Quốc tịch: Nga; Số hộ chiếu: 76716xxxx; Nơi cư trú: Thành phố X, bang KM, Nga; Nơi cư trú tại Việt Nam: B2.10 A T 37, phường M A, quận N H S, thành phố Đ N. Vắng mặt

5. Ông Đặng V, sinh năm 1992; Nơi cư trú: 73 Tr S, phường H T T, quận C L, thành phố Đ N. Vắng mặt

6. Ông Đinh Văn H, sinh năm 1994; Nơi cư trú: 19 T L 11, quận C L, thành phố Đ N. Vắng mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Kitaev D, sinh năm 1989; Nơi cư trú: 07 Ph T 11, phường Ph M, quận S Tr, thành phố Đ N. Vắng mặt

2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1994; Nơi cư trú: 132 H H G, phường Kh T, quận C L, thành phố Đ N. Vắng mặt

3. Ông Lê Hữu N, sinh năm 1992; Nơi cư trú: 130H 30/11 Đ B P, phường C G, quận T K, thành phố Đ N. Vắng mặt

4. Ông Daniil D, sinh năm 1982; Quốc tịch: Nga; Số hộ chiếu: 77113xxxx; Nơi ở tại Việt Nam: 27 A T 34, phường M A, quận N H S, thành phố Đ N. Vắng mặt

5. Ông Lê Hồng Q, sinh năm 2000; Nơi cư trú: 104 Ph T 5, phường H P, quận C L, thành phố Đ N. Vắng mặt

6. Ông Đỗ Minh Đ, sinh năm 1994; Nơi cư trú: P203, 287 N T, quận H Ch, thành phố Đ N. Vắng mặt

7. Ông Nguyễn Công L, sinh năm 1993; Nơi cư trú: 14 K D V, phường H M, quận L C, thành phố Đ N. Có mặt

*Người chứng Kiến: Bà Trần Thị Mai S, sinh năm 2001; Nơi cư trú: Xóm 8, xã H H, huyện H K, tỉnh H T. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối năm 2022, Phan Công L không có việc làm, cần tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của các Shipper trên địa bàn thành phố Đ N bằng thủ đoạn gian dối Phan Công L sử dụng Facebook tìm mua tài khoản Telegram tên “KHANH” và Lịch sử dụng tài khoản này vào hội nhóm “@Việt Nam - OBMN” có nghĩa là hội đổi tiền Nga tại Việt Nam. Khi thấy người Nga trong hội nhóm cần đổi tiền Việt Nam thì Lịch trao đổi, thống nhất số tiền quy đổi và địa chỉ giao tiền. Sau đó, Lịch sử dụng các Facebook tên là “AUDREY Trương”, “Quốc K” và “A” đăng vào các hội nhóm Shipper Đà Nẵng để liên hệ các Shipper có tiền Việt Nam đồng giao cho người Nga, L thỏa thuận với các Shipper mỗi lần giao tiền sẽ được hưởng phí từ 80.000 đồng đến 300.000 đồng. Shipper đồng ý, sẽ cầm tiền Việt Nam đồng đến giao cho người Nga, đồng thời L yêu cầu người Nga chuyển tiền qua cho Lịch đến tài khoản có ví điện tử USDT (L không nhớ số tài khoản) của bên dịch vụ tại nước ngoài. Sau đó, L ngắt liên lạc với các Shipper. L bán USDT trên sàn “Biance” ra tiền Việt Nam đồng rồi chuyển vào tài khoản ngân hàng Techcombank của L số: 217xxxx999 và rút tiền mặt sử dụng tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ 1: Ngày 07/12/2022, Phan Công L đăng nhập vào ứng dụng Telegram, thấy một người ngoài (không rõ lai lịch) đăng tin “Cần đổi 830 USDT sang tiền Việt Nam đồng”. L sử dụng Facebook tên “A” vào nhóm “Shipper Đà Nẵng” đăng thông tin “Cần rút 20.000.000 đồng tiền mặt, với mức phí 80.000 đồng”. Sau đó, anh Lê S (Sinh năm:2003, trú tại: Tổ 30, phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) sử dụng facebook là “Le Son” nhận giao tiền theo đề nghị của L, yêu cầu anh S đến chung cư Mường Thanh (đường Trần Bạch Đằng, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng) gặp người nước ngoài để giao tiền. Khi S đến nơi, L yêu cầu S đưa 20.000.000 đồng cho người nước ngoài, đồng thời L yêu cầu người nước ngoài chuyển 830 USDT (tiền ảo trên mạng) vào tài khoản ví điện tử USDT bên dịch vụ tại nước ngoài của L. Sau đó, L bán USDT trên sàn “Biance” ra tiền Việt Nam đồng và từ tiền Việt Nam đồng, L chuyển vào tài khoản game “MMlive” của L và sử dụng chơi game. Sáu khi anh Lê S giao tiền cho người nước ngoài thì L ngắt liên lạc.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê S yêu cầu L bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, L chưa bồi thường.

Vụ thứ 2: Ngày 12/11/2023, L sử dụng tài khoản Telegram tên “Khanh” vào hội nhóm “@Việt Nam - OB MEN” và kết nối được một người nước ngoài cần đổi 500 USDT (tiền ảo trên mạng). Sau đó L sử dụng Facebook “Quốc K” sau này L đổi tên thành “Audrey Trương” vào nhóm “Shipper Đà Nẵng” gặp anh Lê Văn S (Sinh năm: 2006, trú tại: Phòng 1201 Chung cư 12T3 đường B D L, phường N H Đ, quận S T, thành phố Đ N) sử dụng Facebook “Lê Văn S”. L yêu cầu S giao số tiền 12.400.000 đồng cho người nước ngoài tại địa chỉ 89 Bạch Đằng, thành phố Đà Nẵng, phí giao 170.000 đồng. Sau đó, S đến giao tiền Việt Nam đồng cho người nước ngoài (không rõ lai lịch) và đồng thời Lịch yêu cầu người nước ngoài chuyển 500 USDT vào tài khoản ví điện tử USDT của L. Sau đó, L bán USDT trên sàn “Biance” ra tiền Việt Nam đồng và Techcombank số: 217xxxx999 của L. Sau khi chiếm đoạt được tiền của Lê Văn S, L đã sử dụng vào tiêu xài cá nhân hết.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Phan Công L khắc phục số tiền 12.400.000 đồng cho anh Lê Văn S. Anh S xin giảm nhẹ hình phạt cho L.

Vụ thứ 3: Ngày 03/12/2023, Phan Công L sử dụng tài khoản Telegram tên “Sgrei” (L đổi tên từ tài khoản Telegram “Khanh”) vào hội nhóm “@Việt Nam - OB MEN” và kết nối được ông Kitaev D (Sinh năm: 1989, Quốc tịch: Nga) sử dụng Telegram tên “ banhmiliemsi” cần đổi 200.000 RUP qua tiền Việt Nam đồng. Sau đó, Lịch sử dụng Facebook “Quốc K” vào nhóm “Shipper Đà Nẵng” gặp anh Huỳnh Đức H (Sinh năm: 1998, trú tại: Tổ 27, phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng) sử dụng Facebook “Huỳnh Đức H”. Lịch yêu cầu H giao số tiền 55.000.000 đồng tại 07 Ph T 11, quận S T, thành phố Đ N, phí giao là 250.000 đồng. Sau đó, H đã đến giao tiền Việt Nam đồng cho ông Kitaev D và L yêu cầu ông Kitaev D chuyển tiền vào tài khoản Ngân hàng nước Nga thông qua bên dịch vụ cho L. Sau đó, bên dịch vụ chuyển số tiền 53.103.000 đồng (đã trừ phí dịch vụ) cho L vào tài khoản game “MMLive”. L sử dụng 8.103.000 đồng để chơi game, còn lại 45. 000.000 đồng Lịch chuyển về tài khoản Ngân hàng Quân đội, số 200001065xxxx của Lê Hồng Q (bạn của L, Q không biết tiền do L phạm tội mà có). Qua ngày 04/12/2023, Q chuyển số tiền 45.000.000 đồng vào tài khoản Techcombank của L số: 217999xxxx, sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Anh H không thấy L chuyển lại số tiền đã giao nên đến Công an phường Ph M, quận S T tố cáo hành vi lừa đảo.

Tang vật tạm giữ:

Công an phường Ph M, quận S T làm việc với ông Kitaev D đã tạm giữ số tiền 55.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Phan Công L đã khắc phục cho anh Huỳnh Đức H số tiền 55.000.000 đồng. Anh H xin giảm nhẹ hình phạt cho L.

Vụ thứ 4: Ngày 27/12/2023, L sử dụng tài khoản Telegram "Khanh" vào hội nhóm "@Việt Nam - OB MEN" và đăng thông tin cần đổi 50.000 RUP qua tiền Việt Nam đồng. L kết nối được bà Panchenko A (Sinh năm: 1999, quốc tịch: Nga, cư trú: B2.10 A T 37, phường M A, quận N H S, TP. Đà Nẵng), có tài khoản Telegram là “Annie” đồng ý đổi cho L. Sau đó, L sử dụng Facebook "Audiey Trương” vào nhóm “Shipper Đà Nẵng” gặp anh Nguyễn Văn Th (Sinh năm: 1994, trú tại: 132 H H G, phường Kh Tr, quận C L, TP. Đà Nẵng) sử dụng facebook là "Văn Thành" đồng ý giao số tiên 13.200.000 đồng tại D41 An Thượng, TP. Đà Nẵng, phí đi giao là 80.000 đồng. Khi Nguyễn Văn Th đến nơi, L yêu cầu bà Panchenko A chuyển 50.000 RUP vào tài khoản Ngân hàng tại nước Nga thông qua bên dịch vụ cho L. Sau đó, bà Panchenko A yêu cầu Th đưa số tiền 13.200.000 đồng, Th không đồng ý vì L chưa chuyển tiền vào tài khoản của Th và Th bỏ đi. Đối với số tiền bà Panchenko A chuyển theo yêu cầu của L thì bên dịch vụ chuyển số tiền 12.600.000 đồng (đã trừ phí dịch vụ) cho L vào tài khoản game "MMLive". Đồng thời, từ tài khoản game L chuyển số tiền này vào tài khoản Techcombank của Lịch số: 217xxxx999. Số tiền chiếm đoạt được, L đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Căn cứ Công văn số 315/ĐAN-TTGSNH ngày 14/3/2024 của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Đà Nẵng, xác định tỷ giá Rúp Nga vào ngày 27/12/2023 có giá trị 50.000 x 264,93 = 13.246.500 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Phan Công L đã khắc phục cho bà Panchenko A số tiền 13.200.000 đồng. Bà Panchenko A xin giảm nhẹ hình phạt cho bị can L.

Vụ thứ 5: Ngày 18/01/2024, Phan Công L đăng nhập ứng dụng Telegram thì thấy một tài khoản telegram của người Nga (không rõ lai Lịch) đang thông tin bằng tiếng Nga có nội dung dịch ra là "cần đôi 1000 USD sang tiền Việt Nam". Lịch sử dụng facebook "Audrey Trương" vào hội nhóm "Shipper Đà Nẵng" đăng tin "cần đổi 1000 USD sang tiền Việt" và gặp anh Đặng V (Sinh năm: 1992, trú tại: Thôn H V 2, xã V H, huyện P L, tỉnh Thừa Thiên Huế) sử dụng tài khoản “Đặng V” đồng ý đổi với giá 24.250.000 đồng. Sau đó, Việt đến 02 Võ Văn Kiệt,TP. Đà Nẵng giao tiền cho người Nga (không rõ lai lịch). Tại đây, Phan Công L yêu cầu V chuyển 24.250.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng Techcombank, số tài khoản 886708xxxx mang tên Duong Minh Th (đây là tài khoản do nhà game MMline cung cấp cho L trong quá trình chơi game) để L chuyển cho người nước ngoài. Việt chuyển tiền xong, L ngắt liên lạc với Việt. Số tiền chiêm đoạt, L đã sử dụng chơi game hết.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Phan Công L khắc phục cho anh Đặng V số tiền 24.250.000 đồng. Anh V xin giảm nhẹ hình phạt cho L.

Vụ thứ 6: Ngày 21/01/2024, Phan Công L sử dụng tài khoản Telegram "Khanh" vào hội nhóm "@Việt Nam - OB MEN" và kết nối được ông Daniil D (Quốc tịch: Nga) cần đổi 180.000 Rúp. Sau đó, Lịch sử dụng Facebook "Audrey Trương" vào nhóm "Shipper Đà Nẵng" gặp anh Đinh Văn H (Sinh năm: 1994, trú tại: Số 19 Th L11, phường H X, quận C L, TP. Đà Nẵng) sử dụng facebook tên "Đinh Hậu", yêu cầu Hậu giao sổ tiền 50.000.000 đông đền địa chỉ 24 AT 34, phường M A, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, phí giao là 300.000 đồng. Anh H nhờ anh Lê Hữu N (Sinh năm: 1992, trú tại: 130/H30/11 Đ B P, phường C G, quận T K, TP. Đà Nẵng) đi giao tiền cho ông Daniil D. Nhân đến nơi, L yêu cầu ông Daniil D chuyển 180.000 Rúp vào tài khoản Ngân hàng tại nước Nga thông qua bên dịch vụ đổi tiền cho L. Sau đó, Nhận giao tiền cho ông Daniil D và L ngắt liên lạc với N. Bên dịch vụ đổi tiền chuyển số tiền 48.000.000 đồng (đã trừ phí dịch vụ) cho L vào tài khoản game "MMLive". Đồng thời, từ tài khoản game L chuyến số tiền này vào tài khoản Techcombank của L số: 217xxxx999. Số tiền chiếm đoạt được, L đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Anh Lê Hữu N đến Công an phường Mỹ A, quận N H S trình báo sự việc.

Tang vật tạm giữ:

Công an phường M A, quận N H S làm việc với ông Daniil D đã tạm giữ số tiền 50.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình Phan Công L khăc phục cho anh Đinh Văn H số tiên 50.000.000 đông. Anh H xin giảm nhẹ hình phạt cho L.

Ngoài ra, Cơ quan điều tra tạm giữ của Phan Công L các đồ vật, sau:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu trắng, số IMEI 355359087321437.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70, màu xanh đen, số IMEI: 355915102674520.

- 01 (một) thẻ ngân hàng Techcombank mang tên Phan Công L.

Tại bản cáo trạng số 121/CT – VKS – P2 ngày 15/7/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Phan Công L về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhan dân thành phố Đà Nẵng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phan Công L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như cáo trạng đã nêu; đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ: điểm b, c khoản 2 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Công L mức án từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại Lê Văn S, Huỳnh Đức H, Panchenko A, Đặng V, Đinh Văn H đã nhận lại toàn bộ số tiến bị chiếm đoạt nên không đề cập. Riêng đối với anh Lê S, tại phiên tòa gia đình bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại Lê S số tiền 20.000.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện khắc phục hậu quả của gia đình bị cáo Li.

Về xử lý tang vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phan Công L khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có tại hồ sơ vụ án; phù hợp với nội dung và kết luận của bản cáo trạng. Nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân, điều kiện hoàn cảnh gia đình, lần đầu vi phạm, đã bồi thường hết cho bị hại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Sau khi kiểm tra và đánh giá, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là hợp pháp, đúng với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Qua xem xét lời khai nhận tội của bị cáo Phan Công L trong quá trình điều tra và tại phiên toà; Lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng thời gian từ cuối năm 2022 đến đầu năm 2024, Phan Công L không có nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài cá nhân nên nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiên bằng thủ đoạn gian dối bằng cách L liên hệ với các Shipper giao hàng có tiền Việt Nam đồng để giao tiền cho người nước ngoài cần đối tiền. Sau khi, các Shipper giao tiền cho người nước ngoài và người nước ngoài chuyển số tiền đền tài khoản theo yêu cầu của Phan Công L thì L ngắt liên lạc, không chuyển tiền trả lại cho các Shipper. Trong khoảng thời gian này, với thủ đoạn nêu trên, Phan Công L đã 06 lần chiếm đoạt tiền của các anh Lê S, Lê Văn S, Huỳnh Đức H, bà Panchenko A, anh Đặng V và Đinh Văn H với tổng số tiền 174.896.500 đồng và sử dụng số tiền chiếm đoạt tiêu xài cá nhân.

[2] Xét tính chất của vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và việc quyết định hình phạt, HĐXX nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của các bị hại được pháp luật bảo vệ, chiếm đoạt số tiền lớn của nhiều bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam đối với du khách nước ngoài, nên cần xử lý nghiêm minh và thích đáng.

[2.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhiều lần đối với nhiều người, nên còn bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[2.2]. Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; tổng số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt hoàn thành của các bị hại là 174.896.500 đồng, bị cáo và gia đình bị cáo đã trả lại đủ tiền cho các bị hại với tổng số tiền là 174.896.500 đồng; quá trình tố tụng đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo có khó khăn; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, được HĐXX áp dụng để xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị cáo đã khắc phục toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho các bị hại nên HĐXX không đề cập.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

Công an phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà làm việc với ông Kitaev D đã tạm giữ số tiền 55.000.000 đồng. Ngày 17/5/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng xác định số tiền 55.000.000 đồng là của ông Kitaev D và đã trả lại cho ông Kitaev D theo quyết định số 1872/QĐ-CSHS ngày 13/5/2024 là có cơ sở.

Công an phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn làm việc với ông Daniil D đã tạm giữ số tiền 50.000.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định số tiền này là của ông Daniil D, tuy nhiên ông Daniil D đã xuất cảnh khỏi Việt Nam vào ngày 19/02/2024 nên vẫn tiếp tục quy trữ số tiền này để trả lại cho ông Daniil Do. (Số tiền này hiện Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng đang quản lý theo Giấy nộp tiền mặt số 25645807 ngày 17/6/2024) - Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu trắng, số IMEI:

355359087321437 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70, màu xanh đen, số IMEI:355915102674520. Điện thoại nêu trên L sử dụng thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 (một) thẻ ngân hàng Techcombank mang tên Phan Công L. Thẻ Ngân hàng này Phan Công L sử dụng để thực hiện tội phạm nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Các vấn đề khác trong vụ án:

Trả lại cho ông Daniil D (Quốc tịch: Nga) số tiền 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, ông Daniil D đã xuất cảnh khỏi Việt Nam nên chưa trả lại được nên tiếp tục giữ số tiền này và đợi kết quả giải quyết. (Số tiền này hiện Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng đang quản lý theo Giấy nộp tiền mặt số 25645807 ngày 17/6/2024) Đối với các tài khoản 1028381086 của Lê Thị Thu D, tài khoản 19033792212014 của Lê Trần Nhật H, tài khoản 886708xxxx của Dương Minh Tvà tài khoản 19035097728010 của Trần Thị Thanh V thực hiện lệnh chuyển tiền theo yêu cầu của Phan Công L trên ứng dụng game "MMLive". Cơ quan điều tra xác minh nhưng hầu hết các đối tượng này không có tại địa phương, chỉ làm việc được với anh Dương Minh T nhưng anh T khai không có sử dụng số tài khoản này nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố: Bị cáo Phan Công L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ: Theo điểm b, c khoản 2 Điều 174; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Phan Công Lịch 03 (ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2024.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS tuyên:

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 50.000.000 đồng để trả lại cho ông Daniil D. (Số tiền này hiện Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng đang quản lý theo Giấy nộp tiền mặt số 25645807 ngày 17/6/2024) - Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu trắng, số IMEI: 355359087321437 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A70, màu xanh đen, số IMEI:355915102674520.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) thẻ ngân hàng Techcombank mang tên Phan Công L.

(Các vật chứng trên hiện Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 22/7/2024).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phan Công L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2024/HS-ST

Số hiệu:90/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;