Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 90/2023/HS-ST NGÀY 04/04/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 390/2022/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/HSST- QĐ ngày 20 tháng 02 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2023/HSST-QD- ngày 20/3/2023, đối với bị cáo:

Hồ Văn K, sinh năm 1970 tại tỉnh Trà Vinh; thường trú: Ấp D, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Hồ Văn X (đã chết) và bà Nguyễn Thị V, sinh năm: 1951; có vợ tên Phạm Thị O, sinh năm 1968; có 02 con, lớn sinh năm: 1993, nhỏ sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 05/9/2022. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Đào Duy T, sinh năm 1981, địa chỉ: Khu phố Đ, phường T, thành phố D, thành phố Bình Dương; vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng T; Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền ông Trương Khắc Nam D - chức vụ: Chuyên Viên Điều tra - VPB SMBC FC; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/01/2022, Hồ Văn K mua xe mô tô nhãn hiệu Honda Future Fi và đăng ký cấp biển số 84K1-X tại Công an huyện C, tỉnh Trà Vinh. Kỷ không thích biển số xe 84K1-X nên khoảng tháng 7/2022, Kỷ lên mạng xã hội faccebook vào trang quảng cáo làm giả giấy tờ xe, K gửi thông tin cá nhân và số khung, số máy của xe mô tô và đặt biển số xe mô tô 84K1-X cùng một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô trùng khớp với biển số trên để thay thế cho biển số xe mô tô. Khoảng giữa tháng 7/2022, K được nhân viên giao hàng giao biển số xe 84K1-X cùng một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô trùng khớp với biển số xe trên với giá 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi nhận được biển số xe mô tô (giả), K tháo biển số xe mô tô cũ ra và lắp biển số xe mô tô giả vào cùng với giấy chứng nhận đăng ký xe giả để sử dụng.

Cuối tháng 7/2022, K đến cơ sở cầm đồ D tại địa chỉ khu phố Đ, phường Tâ, thành phố D, tỉnh Bình Dương gặp anh Đào Duy T, để cầm 01 Giấy phép lái xe hạng A1, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, biển số 84K1- X mang tên Hồ Văn K lấy số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Anh T chủ tiệm cầm đồ kiểm tra, không phát hiện giấy đăng ký xe mô tô là giả, nên đã đồng ý cầm giấy tờ xe với số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngày 30/8/2022, K tiếp tục đến tiệm cầm đồ D gặp anh T và yêu cầu cầm xe mô tô Honda Future Fi, biển số 84K1-X cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô giả với số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), anh T kiểm tra số khung, số máy của xe mô tô và đối chiếu với giấy chứng nhận đăng ký xe, anh T tin các giấy tờ mà K đưa và đồng ý đưa thêm cho K 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng) đã trừ số tiền cầm trước đó và K đã nhận lại, 01 Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Hồ Văn K, anh T giữ lại xe mô tô Honda Future Fi, biển số 84K1-X cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 chứng minh nhân. Ngày 31/8/2022, K tiếp tục đến tiệm cầm đồ D gặp chị H (vợ anh T) và yêu cầu nâng hạn mức cầm đồ lên 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng). Lúc này chị H thấy biển số đẹp nên đồng ý cầm với số tiền trên. Chị H thu lại giấy biên nhận cầm đồ trước đó rồi ghi giấy biên nhận cầm đồ mới, đồng thời đưa cho K số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng). Tính đến ngày 31/8/2022, Cơ sở cầm đồ D đã cầm cố xe mô tô cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô Honda Future Fi, biển số 84K1-X của K với số tiền cầm đồ 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

Ngày 05/9/2022, K muốn chiếm đoạt thêm tiền nên tiếp tục đến cơ sở cầm đồ D và yêu cầu nâng hạn mức cầm đồ thêm 5.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), sau khi nghe yêu cầu của K thì chị H điện thoại cho chồng là anh T. Anh Tvề và gặp và làm việc với K. Qua kiểm tra Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô Honda Future Fi, biển số 84K1-X, nghi ngờ có vấn đề nên yêu cầu K đến Công an phường T làm việc. Lúc này K sợ bị phát hiện xin được trả lại toàn bộ tiền đã cầm cố 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) và xin được nhận lại xe cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và đưa cho vợ chồng anh T số tiền 34.000.000 đồng (Ba mươi bốn triệu đồng) và còn thiếu số tiền 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng). Do K không đủ tiền trả nên anh T đã trình báo Công an phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. K đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 126/BBĐG-HĐĐGTS ngày 12/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự thành phố D, tỉnh Bình Dương kết luận; Xe mô tô hiệu Honda Future Fi màu Xanh, đen, biển số 84K1- X, số khung RLIUC7653MY112077, số máy JC9010214660 có trị giá 34.000.000 đồng (Ba mươi bốn triệu đồng).

Tại kết luận giám định số 405 ngày 10/10/2022 của phòng kỹ thuật Công an tỉnh Bình Dương kết luật giám định; 01 giấy “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy” số 004818, mang tên “Hồ Văn K”, địa chỉ: D, A, C, Trà Vinh, đề ngày 17/01/2022 là giả bằng phương pháp in phun màu điện tử.

Vật chứng thu giữ:

+ 01(một) xe mô tô Honda Future Fi màu Xanh, đen, biển số 84K1-X, số khung RLIUC7653MY112077, số máy JC9010214660 + 01(một) biển số xe mô tô biển số 84K1-X (màu trắng) + 01(một) giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 84K1-X bản photo;

+ 01(một) giấy hẹn của Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nhận giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 84K1-X + 01(một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 84.004818 của Honda Future Fi biển số 84K1-X (bản giả).

Xử lý vật chứng: Đối với xe 01(một) xe mô tô Honda Future Fi màu Xanh, đen, biển số 84K1-X, số khung RLIUC7653MY112077, số máy JC9010214660 đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 84K1-X bản photô, 01(một) giấy hẹn của Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nhận giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 84K1-X (đã lưu ttrong hồ sơ vụ án); 01(một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 84.004818 của Honda Future Fi biển số 84K1- X (bản chính), 01(một) biển số xe mô tô biển số 84K1-X (màu trắng), là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Đào Duy T chủ cơ sở Cầm đồ Duy T yêu cầu Hồ Văn K bồi thường số tiền 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng) cho anh T. Hồ Văn K chưa bồi thường cho anh T.

Tại cáo trạng số: 23/CT–VKS-DA ngày 22 tháng 12 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hồ Văn K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”; theo điểm c khoản 2 Điều 174 và b, d khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 và b, d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Hồ Văn Kỷ mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”;

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hồ Văn K bồi thường số tiền 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng) cho anh T.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Hành vi đưa ra thông tin gian dối bằng cách dùng giấy chứng nhận đăng ký xe giả nhằm chiếm đoạt số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) của Hồ Văn K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Do đó Cáo trạng số 23/CT–VKS-DA ngày 22 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D và luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với hành vi đặt làm giả biển số xe mô tô và giấy đăng ký xe mô tô biển số 84K1-X của Hồ Văn K, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị cáo K khai nhận: Bị cáo gửi thông tin cá nhân và số khung, số máy của xe mô tô và đặt biển số xe mô tô 84K1- X cùng một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô trùng khớp với biển số trên để thay thế cho biển số xe mô tô, mục đích để bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” được quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp về tội danh, khung hình phạt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự và áp dụng mức hình phạt thấp mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị cho phù hợp với tội danh, tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị đơn được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự quản lý hành chính Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam tư lợi mong muốn có tiền để tiêu xài nên đã cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải và đầu thú.

[6] Xử lý vật chứng thu giữ:

Đối với 01 xe mô tô Honda Future Fi màu Xanh, đen, biển số 84K1-X, số khung RLIUC7653MY112077, số máy JC9010214660 do Hồ Văn K đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe, đây là phương tiện Hồ Văn K sử dụng vào việc phạm tội. Xe mô tô này Hồ Văn K thế chấp cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng vay 35.237.000 đồng, đã trả góp được 8.190.000 đồng. Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng yêu cầu Hồ Văn K có yêu cầu thu hồi chiếc xe để thu hồi khoản nợ. Xét thấy, yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử giao xe mô tô Honda Future Fi màu Xanh, đen, số khung RLIUC7653MY112077, số máy JC9010214660 và 01 biển số xe mô tô biển số 84K1-X (màu trắng) giao cho Cơ quan thi hành dân sự thành phố D phối hợp với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng tiến hành bán đấu giá để xử lý khoản nợ vay theo hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa bị cáo Hồ Văn K với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, giá trị tài sản còn lại thì tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 84K1-X bản photô, 01 (một) giấy hẹn của Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nhận giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 84K1-X (bản chính), lưu hồ sơ vụ án.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đào Duy T chủ cơ sở Cầm đồ D yêu cầu Hồ Văn K bồi thường số tiền 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng), tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường. Có căn cứ buộc Hồ Văn K bồi thường cho anh Đào Duy T.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật; đối với tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” là chưa phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử xác định lại tội danh cũng như mức hình phạt cho đúng với vai trò và hành vi của bị cáo đã thực hiện.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Văn K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174 và khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn K 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Xử phạt bị cáo Hồ Văn K 01 (một) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

Tổng hợp hình phạt của hai tội danh, buộc bị cáo Hồ Văn K chấp hành chung là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/9/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 468, 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc Hồ Văn K có trách nhiệm bồi thường cho anh Đào Duy T, với số tiền là 16.000.000 (mười sáu triệu) đồng.

Kể từ ngày anh Đào Duy T có yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chậm trả số tiền trên thì hàng tháng Hồ Văn K còn phải trả cho anh Đào Duy T khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 89, điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chi cục thi hành án dân sự thành phố D phối hợp với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng xử lý bán đấu giá tài sản là xe mô tô Honda Future Fi màu Xanh, đen, biển số 84K1-X, số khung RLIUC7653MY112077, số máy JC9010214660 để Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng thu hồi nợ vay theo hợp đồng tín dụng số 20220111-1928359 ký ngày 11/01/2022 giữa bị cáo Hồ Văn K với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, giá trị tài sản còn lại (nếu có) tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/12/2022) Đối với 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 84K1-X bản photô, 01 (một) giấy hẹn của Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nhận giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 84K1-X và 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 84.004818 của Honda Future Fi biển số 84K1-X, lưu trong hồ sơ vụ án;

3. Án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hồ Văn K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 800.000 (tám trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 90/2023/HS-ST

Số hiệu:90/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;