Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 85/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 85/2022/HS-PT NGÀY 23/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23-3-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2022/TLPT-HS ngày 04-01-2022 đối với bị cáo Hồ Xuân A, do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 24-11-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

- Bị cáo kháng cáo:

Hồ Xuân A, sinh ngày 03-8-1980, tại Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT: Nhà số 76 Đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Hồ Xuân T1, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1954; vợ là Phạm Hồng Đ, sinh năm 1982 (đã ly hôn năm 2014) và có 01 con, sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 16-12-2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại kháng cáo:

1.Đào Thị N, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Thôn S, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

2.Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976; địa chỉ cư trú: Thôn HD, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

3.Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: Thôn MC, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

4.Nguyễn Thị M, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Thôn MC, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

5.Phạm Thị Ánh Th2, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: Thôn TB, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

6. Trần Thị H1, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Thôn S, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

7.Nguyễn Thị Th3, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Thôn HT, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

8. Anh Phạm Minh V, sinh năm 1991; địa chỉ cư trú: Thôn MC, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo:

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Xuân A: Luật sư Đỗ Ngọc T2 - Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Bình; địa chỉ: số 30 đường T3, phường Đ1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

(Vụ án còn 20 bị hại không kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hoàng Thị S1, sinh năm 1974; địa chỉ cư trú: Thôn HD, xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa.

2. Ông Lê Văn H2; địa chỉ cư trú: Thôn NQ, xã NT, huyện B1, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

3. Chị Phạm Hồng Đ; địa chỉ cư trú: Ấp TT, xã TA, huyện Đ3, tỉnh Cà Mau, vắng mặt.

4. Anh Hồ Xuân T4; địa chỉ cư trú: Nhà số 76 Đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Xuân A là giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH Du học du lịch A1, có trụ sở tại số 45/6 đường O, Phường Y, Quận Y1, Thành phố Hồ Chí Minh Mặc dù, biết công ty không có chức năng tuyển dụng hay nhận hồ sơ đi du học nước ngoài, nhưng Hồ Xuân A đã tự đưa ra thông tin công ty có chức năng đưa người đi du học nước ngoài. Sau đó, A chủ động tìm hiểu, liên hệ với những người đang có nhu cầu đi du học nước ngoài để tư vấn, cung cấp một số tài liệu liên quan đến việc du học, nhận hồ sơ, chi phí ứng trước là 130.000.000 đồng/người, cung cấp tài khoản cá nhân số 060177949771 của mình và cam kết trong thời hạn từ 3-6 tháng sẽ đi được, nếu không được sẽ hoàn lại số tiền đã nhận. Bằng những thủ đoạn trên, từ tháng 7-2018 đến ngày 23-4-2019, Hồ Xuân A đã chiếm đoạt của 28 người dân trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, với tổng số tiền là 3.720.000.000 đồng (ba tỷ bảy trăm hai mươi triệu đồng), cụ thể:

Lần thứ nhất: Qua tìm hiểu trên mạng xã hội, ông Nguyễn Trường H3 biết Công ty TNHH Du học du lịch A1 có nhận làm hồ sơ, tư vấn du học và du lịch nên đầu năm 2018, ông H3 chủ động liên hệ với Hồ Xuân A. A đưa ra thông tin bản thân có khả năng đưa được cháu của ông H3 là Nguyễn Hải K sang Canada theo diện du học sinh và mẹ của cháu K cũng được đi theo để chăm sóc. Khi sang được Canada sẽ vừa học vừa làm kiếm thêm thu nhập, mức chi phí ban đầu là 130.000.000 đồng. Tin lời A, ông Nguyễn Trường H3 đã làm hồ sơ, thủ tục rồi chuyển cho A. Tháng 8-2018, Hồ Xuân A gọi điện thông báo cho ông H3 nộp cho A 130.000.000 đồng để A đóng tiền cho Trường học bên Canada. Ngày 22-8-2018, ông Nguyễn Trường H3 đến Ngân hàng CoopBank ở xã XN, huyện Q, tỉnh Quảng Bình chuyển 130.000.000 đồng vào số tài khoản 060177949771 của Hồ Xuân A. Sau khi nhận tiền, A không thực hiện lời hứa mà chiếm đoạt sử dụng cá nhân.

Lần thứ hai: Khoảng tháng 6-2018, khi đưa cháu đi làm thủ tục đi nước ngoài, bà Hoàng Thị S1 gặp Hồ Xuân A tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, A đưa ra thông tin cho bà S1 biết công ty của A cần tuyển, nhận hồ sơ những người có nhu cầu đi du học, nếu có người thân nào đi du học nước ngoài (Canada) thì liên hệ, A sẽ trực tiếp hướng dẫn làm thủ tục, tiếp nhận hồ sơ và tiền, hẹn trong vòng 3-6 tháng là đi được, phí đóng ban đầu của mỗi suất là 130.000.000 đồng/người. Tin là thật, nên khoảng tháng 7-2018, bà SI đã làm thủ tục cho người thân của mình đi du học Canada. Nghe được thông tin, một số người dân trên địa bàn xã B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình tìm đến nhà nhờ bà S1 giúp liên hệ với Hồ Xuân A để làm thủ tục cho các con của mình đi du học Canada, gồm có:

1. Bà Đào Thị N làm thủ tục du học Canada cho con là Lê Thị Khánh H4, số tiền 130.000.000 đồng.

2. Bà Nguyễn Thị Th làm thủ tục du học Canada cho hai con là Nguyễn Văn P1 và Nguyễn Thị Như Quỳnh, số tiền 210.000.000 đồng.

3. Bà Lại Thị Q2 làm thủ tục du học Canada cho con trai là Nguyễn Anh K1, số tiền 130.000.000 đồng.

4. Nguyễn Thị Th4 làm thủ tục du học Canada cho con là Nguyễn Thị Kiều V1, số tiền 130.000.000 đồng.

5. Bà Nguyễn Thị M làm thủ tục du học Canada cho con là Nguyễn Thị Th1 L2, số tiền 130.000.000 đồng.

6. Bà Phạm Thị Ánh Th2 làm thủ tục du học Canada cho con là Phạm Thị Mai L1, số tiền 130.000.000 đồng.

7. Bà Trần Thị H1 làm thủ tục du học Canada cho con là Trương Hoàng Ng, số tiền 130.000.000 đồng.

8. Bà Nguyễn Thị N3 làm thủ tục du học Canada cho con là Võ Thị Trường G1, số tiền 130.000.000 đồng.

9. Anh Phạm Minh V làm thủ tục cho mình du học Canada, số tiền 130.000.000 đồng.

10. Bà Nguyễn Thị Th6 làm thủ tục du học Canada cho con là Hồ Thị Nh, số tiền 130.000.000 đồng.

11. Bà Nguyễn Thị Y làm thủ tục du học Canada cho con là Lại Tấn H5, số tiền 130.000.000 đồng.

12. Bà Trần Thị Hương H6 làm thủ tục du học Canada cho con là Trần Tiến Ph, số tiền 130.000.000 đồng.

13. Bà Nguyễn Thị Ngọc A3 làm thủ tục du học Canada cho con là Lê Đức Kh, số tiền 130.000.000 đồng.

14. Chị Nguyễn Thị Lệ H7 làm thủ tục cho mình du học Canada, số tiền 130.000.000 đồng.

15. Bà Hoàng Thị D làm thủ tục du học Canada cho con là Nguyễn Hoàng V3, số tiền 130.000.000 đồng.

16. Bà Hoàng Bích Th6 làm thủ tục du học Canada cho con là Hoàng Thị Diệu Q1, số tiền 130.000.000 đồng.

17. Anh Phạm Trung K2 làm thủ tục cho mình du học Canada, số tiền 130.000.000 đồng Trong khoảng thời gian từ tháng 6-2018 đến tháng 3-2019, bà Hoàng Thị S1 đã chuyển vào số tài khoản 060177949771 của Hồ Xuân A, với tổng số tiền là 2.290.000.000 đồng (hai tỷ hai trăm chín mươi triệu đồng).

Lần thứ ba: Thông qua những người ở cùng xã, bà Nguyễn Thị S1 biết Công ty TNHH Du học du lịch AI làm thủ tục đưa người khác đi du học tại Canada. Khoảng tháng 7-2018, bà S1 liên hệ với Hồ Xuân A để làm thủ tục cho con trai là Hồ Văn Q2 đi du học. Trong cuộc nói chuyện, A đưa thông tin bản thân có khả năng làm thủ tục và đưa được con chị S1 du học sinh tại Canada và gia đình có thêm một người thân đi cùng để chăm sóc, thời gian chỉ từ 3-6 tháng là đi được. Mức chi phí ban đầu để nộp cho Trường học tại Canada là 130.000.000 đồng. Tin là thật, ngày 26-7-2018, con trai bà S1 là Hồ Văn Q2 đến Ngân hàng Sacombank - Chi nhánh Quảng Bình, nộp vào tài khoản 060177949771 của A số tiền 130.000.000 đồng, nhưng sau đó không thấy A thông báo kết quả, bà S1 nhiều lần hên lạc cho A nhưng không được.

Lần thứ tư: Bà Ngô Thị Ngl biết được thông tin từ bà Nguyễn Thị S1, nên khoảng giữa năm 2018, bà Ng1 liên hệ với Hồ Xuân A để làm thủ tục cho con trai là Nguyễn Văn Nhật L4 đi du học ở Canada. Hồ Xuân A cũng đưa ra những thông tin như đã nói với bà Hoàng Thị S1 và bà Nguyễn Thị S1 về khả năng đưa người đi du học của A. Tin là thật, bà Ng1 nhờ Hồ Văn Q2 (con bà S1) chuyển 02 lần, với tổng số tiền là 130.000.000 đồng vào số tài khoản 060177949771 của A, nhưng sau đó không nhận được thông báo gì, bà Ng1 nhiều lần điện thoại cho A và không liên lạc được.

Lần thứ năm: Chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr có nhu cầu đi nước ngoài, nên đã tìm hiểu thông tin trên mạng và biết Công ty TNHH Du học du lịch A1 tại Thành phố Hồ Chí Minh có tư vấn du học. Khoảng tháng 9-2018, chị Tr liên hệ và được Hồ Xuân A đưa ra thông tin bản thân có khả năng đưa được chị Tr sang du học tại Canada, mức chi phí là 130.000.000 đồng. Theo lời A, chị Tr chuẩn bị các thủ tục hồ sơ sau đó chuyển cho A. Đến tháng 10-2018, chị Tr vào Thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp gặp và được A hứa hẹn trong thời hạn từ 3-6 tháng sẽ hoàn thành thủ tục cho chị Tr đi du học tại Canada. Ngày 05-10-2018, chị Tr chuyển 130.000.000 đồng vào số tài khoản 060177949771 của A qua Ngân hàng Vietcombank - Chi nhánh Quảng Bình. Tuy nhiên, 03 tháng sau không thấy có thông báo, chị Tr liên lạc với A để hỏi tình hình nhưng không được.

Lần thứ sáu: Khoảng tháng 10-2018, ông Lê Văn H2 (trú tại thôn NQ, xã NT, huyện B, tỉnh Quảng Bình) đưa em gái đi nước ngoài, tình cờ gặp Hồ Xuân A tại Thành phố Hồ Chí Minh và được A đưa ra thông tin, nếu có con em hay người quen nào có nhu cầu đi du học ở nước ngoài thì liên hệ cho A, A sẽ trực tiếp nhận hồ sơ và làm thủ tục đi du học trong vòng từ 3-6 tháng là đi được, phí đóng ban đầu của mỗi suất 130.000.000 đồng. Tin là thật, ông Lê Văn H2 đã giới thiệu những người dân trên địa bàn huyện B, tỉnh Quảng Bình để làm thủ tục đi du học Canada, gồm có:

1. Bà Phạm Thị M làm thủ tục du học Canada cho con là Trương Văn V4, số tiền 130.000.000 đồng.

2. Ông Hồ Nh1 làm thủ tục du học Canada cho con là Hồ Văn T6, số tiền 130.000.000đồng.

3. Bà Lê Thị Ph1 làm thủ tục du học Canada cho con là Phạm Văn M2, số tiền 130.000.000 đồng.

4. Bà Nguyễn Thị L4 làm thủ tục du học Canada cho các con và cháu là Nguyễn Văn Th5, Nguyễn Thị D1, Nguyễn Văn H7 và Nguyễn Văn T7, tổng số tiền là 520.000.000 đồng.

Từ ngày 18-10-2018 đến ngày 22-3-2019, ông Lê Văn H2 đã chuyển vào số tài khoản số 060177949771 của Hồ Xuân A, với tổng số tiền là 910.000.000 đồng.

Sau khi nhận tiền và hồ sơ của 28 bị hại (nêu trên), Hồ Xuân A không thực hiện lời hứa, mà chiếm đoạt 3.720.000.000 đồng (ba tỷ bảy trăm hai mươi triệu đồng) để sử dụng cá nhân.

Về trách nhiệm dân sự:

- Trước và sau khi khởi tố vụ án, Hồ Xuân A và ông Hồ Xuân T4 (là bố đẻ của A) đã trả lại cho các bị hại số tiền là 460.000.000 đồng, gồm: bà Đào Thị N 40.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Th 50.000.000 đồng bà Lại Thị Như Q 50.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Thl 10.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị M 10.000.000 đồng, bà Phạm Thị Ánh Th2 40.000.000 đồng, bà Trần Thị H1 40.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Nam 10.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Th3 30.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Y 10.000.000 đồng, ông Nguyễn Trường H3 15.000.000 đồng, bà Ngô Thị Ng1 15.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị S1 15.000.000 đồng và chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr 15.000.000 đồng.

- Bà Hoàng Thị S1 đã trả cho 06 bị hại, gồm: bà Trần Thị Hương H 130.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Ngọc A3 130.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị Lệ H7 130.000.000 đồng, bà Hoàng Thị D 130.000.000 đồng, ông Hoàng Bích Th6 130.000.000 đồng, anh Phạm Trung K2 130.000.000 đồng. Bà Hoàng Thị S1 đã nhận tiền bồi thường từ người nhà của Hồ Xuân A 70.000.000 đồng.

- Ông Lê Văn H2 đã trả cho 07 bị hại, gồm bà Phạm Thị M1 130.000.000 đồng, ông Hồ Nh 130.000.000 đồng, bà Lê Thị Phăng 130.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị L1 520.000.000 đồng. Ông Lê Văn H2 đã nhận tiền bồi thường từ người nhà của Hồ Xuân A 40.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, bà Hoàng Thị S1 đã tự nguyện nộp lại 56.000.000 đồng (tiền chi phí đi lại để làm thủ tục) tại tài khoản của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình để trả lại cho bị hại có giao tiền chi phí cho bà S1.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 24-11-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Hồ Xuân A 15 (mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16-12-2020.

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

- Buộc Hồ Xuân A bồi thường cho các bà Đào Thị N 90.000.000 đồng, Nguyễn Thị Th 160.000.000 đồng, Lại Thị Q 80.000.000 đồng; Nguyễn Thị Th1 120.000.000 đồng, Nguyễn Thị M 120.000.000 đồng, Phạm Thi Ánh Th2 90.000.000 đồng, Trần Thị H1 90.000.000 đồng, Nguyễn Thị N2 120.000.000 đồng, Nguyễn Thị Th3 100.000.000 đồng, Nguyễn Thị Y 120.000.000 đồng, Nguyễn Thị Quỳnh Tr 115.000.000 đồng, Nguyễn Thị S1 115.000.000 đồng, Ngô Thị Ng1 115.000.000 đồng, ông Nguyễn Trường H3 115.000.000 đồng và anh Phạm Minh V 130.000.000 đồng. Tổng cộng Hồ Xuân A phải bồi thường 1.680.000.000 đồng.

- Buộc Hồ Xuân A bồi thường cho Hoàng Thị S1 710.000.000 đồng, bồi thường cho ông Nguyễn Văn H2 870.000.000 đồng.

Các bị hại được trả lại tiền chi phí, do bà Hoàng Thị S1 tự nguyện nộp vào tài khoản tạm giữ số 394901054377 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Quảng Bình, cụ thể: Bà Phạm Thị Ánh Th2 được trả lại 11.500.000 đồng, bà Trần Thị H1 được trả lại 11.500.000 đồng, bà Nguyễn Thị Th3 được trả lại 11.500.000 đồng, bà Nguyễn Thị N được trả lại 11.500.000 đồng và anh Phạm Minh V được trả lại 10.000.000 đồng. Tổng cộng là 56.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 26-11-2021, bị cáo Hồ Xuân A kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 03-12-2021, các bà Trần Thị H1, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Th1 và anh Phạm Minh V kháng cáo, đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Hoàng Thị S1 và buộc bà S1 trả lại cho bà H1 90.000.000 đồng, bà Th 160.000.000 đồng, bà Th1 120.000.000 đồng và anh V 140.000.000 đồng.

- Ngày 06-12-2021, các bà Nguyễn Thị Th3, Phạm Thị Ánh Th2, Đào Thị N và Nguyễn Thị M kháng cáo, đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Hoàng Thị S1 và buộc bà S1 trả lại cho bà Th3 100.000.000 đồng, bà Th2 90.000.000 đồng, bà N 90.000.000 đồng và bà M 120.000.000 đồng.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Hồ Xuân A và bị hại kháng cáo bản án. Đơn kháng cáo của bị cáo và của bị hại là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Bị hại là bà Nguyễn Thị Th kháng cáo, nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của bà Th không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, do đó căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Th.

Tại phiên tòa, bị cáo và các bị hại (có mặt) đều giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Xuân A; không chấp nhận kháng cáo của các bị hại; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phần tranh luận, bị cáo Hồ Xuân A và Luật sư bào chữa cho bị cáo đồng ý về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, nhưng cho rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại và được một số bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; có bố là người có công với cách mạng, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm hình phạt.

Bị hại là các bà: Đào Thị N, Phạm Thị Ánh Th2 Nguyễn Thị Th3, Nguyễn Thị Th1, Nguyễn Thị M, Trần Thị H1 và anh Phạm Minh V đề nghị làm rõ vai trò đồng phạm của bà Hoàng Thị S1, vì bà S1 là người trực tiếp nhận tiền để làm thủ tục cho con của họ đi du học, nên họ không phải là bị hại trong vụ án Hồ Xuân A, mà là bị hại của bà Hoàng Thị S1, nên đề nghị buộc bà S1 phải trực tiếp bồi thường.

Bà Hoàng Thị S1 đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị hại, vì bà chỉ chuyển tiền giúp cho bị hại và thực tế bà đã chuyển tiền cho Hồ Xuân A. Bà không chiếm đoạt tiền của những người này, nên không có trách nhiệm trả, mà chỉ phải trả lại những chi phí đi lại đã nhận từ một số bị hại; đồng thời, bà S1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho bà số tiền bà đã trả cho một số bị hại.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Hồ Xuân A là Giám đốc Chi nhánh Công ty TNHH Du học, du lịch A1, bị cáo biết rõ công ty không có chức năng đưa người đi du học, nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối làm cho nhiều người tin công ty của A có chức năng đưa người đi du học tại Canada. Bằng thủ đoạn gian dối này, từ tháng 7-2018 đến ngày 23-4-2019, bị cáo đã chiếm đoạt của 28 bị hại, với tổng số tiền là 3.720.000.000 đồng (ba tỷ bảy trăm hai mươi triệu đồng) để sử dụng vào mục đích cá nhân.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình kết án bị cáo Hồ Xuân A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Trong thời gian ngắn, bị cáo nhiều lần phạm tội và số tiền chiếm đoạt tương đối lớn, nên cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại và được một số bị hại xin giảm hình phạt; đồng thời, bị cáo có bố là người có công với cách mạng, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, do đó Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 15 (mười lăm) năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được chứng cứ để chứng minh có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới; đồng thời, với hành vi phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng mà bị cáo đã thực hiện, thì việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài là điều cần thiết. Có như vậy, mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Vì vậy, Hội đồng xét xử không giảm hình phạt cho bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, nhưng không có cơ sở để chấp nhận.

[3]. Xét kháng cáo của bị hại:

- Đối với kháng cáo về việc truy cứu trách nhiệm hình sự bà Hoàng Thị S1:

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Khi đi tiễn người nhà đi nước ngoài, bà Hoàng Thị S1 tình cờ gặp Hồ Xuân A tại Thành phố Hồ Chí Minh và được A chủ động đặt vấn đề công ty của A có chức năng đưa người đi du học tại Canada, với chi phí thấp hơn các nơi khác và đề nghị bà S1 giới thiệu những người có nhu cầu du học để A làm giúp. Tin tưởng những thông tin A đưa ra là thật, nên bà S1 đã chuyển tiền để nhờ A làm thủ tục cho các cháu của mình. Sau đó, biết được những thông tin này, nên một số bị hại khác đến nhờ bà S1 làm giúp và thực tế, sau khi nhận tiền từ bị hại, thì bà S1 đã chuyển đầy đủ vào tài khoản cá nhân của Hồ Xuân A. Như vậy, về mặt chủ quan thì bà Hoàng Thị S1 không biết được những thông tin Hồ Xuân A đưa ra là giả, nên chính bà S1 cũng đã chuyển tiền của bà để nhờ làm giúp cho các cháu của mình; đồng thời, bà S1 cũng không được hưởng lợi từ số tiền mà bà đã chuyển cho A. Do đó, không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà Hoàng Thị S1.

- Đối với kháng cáo yêu cầu bà Hoàng Thị S1 bồi thường thiệt hại:

Mặc dù, quá trình điều tra bà Hoàng Thị S1 đã trả cho bà Trần Thị Hương Huế 130.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Ngọc A3 130.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị Lệ H7 130.000.000 đồng, bà Hoàng Thị D 13.000.000 đồng, ông Hoàng Bích Th6 130.000.000 đồng và anh Phạm Trung K2 130.000.000 đồng, nhưng đây là sự tự nguyện của bà Hoàng Thị S1.

Đối với số tiền của các bị hại còn lại, bà S1 đã chuyển hết cho Hồ Xuân A, không được hưởng lợi từ số tiền này. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình “Buộc Hồ Xuân A phải bồi thường cho bà Đào Thị N 90.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Th 160.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Th1 120.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị M 120.000.000 đồng, bà Phạm Thị Ánh Th2 90.000.000 đồng, bà Trần Thị H1 90.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Th3 100.000.000 đồng và anh Phạm Minh V 130.000.000 đồng” là đúng pháp luật.

Như vậy, kháng cáo của các bà Trần Thị H1, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Th1, Nguyễn Thị Th3, Phạm Thị Ánh Th2, Đào Thị N và Nguyễn Thị M và anh Phạm Minh V đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và không có căn cứ để chấp nhận.

[4] . Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[5] . Về án phí:

Do kháng cáo không được chấp nhận, nên Hồ Xuân A phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị hại kháng cáo không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Xuân A.

- Không chấp nhận kháng cáo của các bà: Trần Thị H1, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Th1, Nguyễn Thị Th3, Phạm Thị Ánh Th2, Đào Thị N, Nguyễn Thị M và anh Phạm Minh V - Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 24-11-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Hồ Xuân A 15 (mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16-12-2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584,585, 586 và 589 của Bộ luật Dân sự.

- Buộc Hồ Xuân A bồi thường cho các bà: Đào Thị N 90.000.000 đồng, Nguyễn Thị Th 160.000.000 đồng, Nguyễn Thị Th1 120.000.000 đồng, Nguyễn Thị M 120.000.000 đồng, Phạm Thị Ánh Th2 90.000.000 đồng, Trần Thị H1 90.000.000 đồng, Nguyễn Thị Th3 100.000.000 đồng và anh Phạm Minh V 130.000.000 đồng.

4. Quyết định về bồi thường thiệt hại đối với các bị hại khác, quyết định xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm được thực hiện theo Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2021/HS-ST ngày 24-11-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

5. Về án phí:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Hồ Xuân A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

640
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 85/2022/HS-PT

Số hiệu:85/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về

Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;