Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 800/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 800/2023/HS-PT NGÀY 17/10/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 818/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Công V, do có kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 257/2023/HS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo bị kháng cáo:

Nguyễn Công V (tức Nguyễn Văn V1), sinh năm 1968; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Thôn G, xã P, huyện Q, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Con ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị C1 (đều đã chết); Vợ là Nguyễn Thị T, có 03 con (lớn sinh 1991, nhỏ sinh 2001); Tiền án, tiền sự: Ngày 24/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (đang được hoãn chấp hành hình phạt tù do bệnh nặng) theo danh chỉ bản số 000000036 ngày 20/01/2022 tại Công an huyện Q, thành phố Hà Nội; Bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2022. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Công V: Luật sư Hoàng Ngọc Thanh B - Văn phòng L1, Đoàn Luật sư thành phố H. Có mặt.

* Người bị hại có kháng cáo: Bà Phạm Thị T1, sinh năm 1966; trú tại: Thôn V, xã N, huyện T, thành phố Hà Nội,Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu năm 2019, do làm ăn thua lỗ cần tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân, Nguyễn Công V đã nảy sinh ý định thuê người làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) mang tên mình, mục đích là để mang đi cầm cố vay tiền hoặc chuyển nhượng đất cho người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Khoảng tháng 01/2019, V tìm hiểu trên trang Web thấy có đăng quảng cáo làm giả sổ đỏ, thì V sử dụng số điện thoại 096X398 liên hệ qua ứng dụng Zalo thuê đối tượng có tài khoản Z tên “K” làm giả sổ đỏ với giá 15.000.000 đồng/1 sổ đỏ. Vận nhắn tin, cung cấp thông tin cá nhân, thông tin các thửa đất để “Khang” làm giả sổ đỏ. Hai bên thỏa thuận, sau khi cung cấp thông tin, V sẽ đặt cọc số tiền 2.000.000 đồng/01 sổ đỏ giả, số tiền còn lại sẽ thanh toán sau khi nhận được sổ đỏ giả. Việc đặt cọc, thanh toán mua sổ đỏ giả bằng hình thức chuyển khoản qua dịch vụ chuyển tiền V2 đến tài khoản “Chu Vĩnh K1”. Sau khi làm được sổ đỏ giả, đối tượng K1 sẽ gửi cho V qua dịch vụ chuyển phát. Trong tháng 01/2019, Nguyễn Công V đã thuê làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể như sau:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388, thửa đất số 19, tờ bản đồ số 05, địa chỉ tại thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội, diện tích 2115,5m2, trong đó đất ở 400m2, đất trồng cây lâu năm 1715,5m2 do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 02/6/2013 cho Nguyễn Công V.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311, thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65, địa chỉ tại thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội, diện tích 100m2, mục đích: Đất ở, do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 20/7/2017 cho Nguyễn Công V.

Sau khi nhận được 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nêu trên, V đã mang đi bán và cầm cố cho người khác để chiếm đoạt của 02 bị hại tổng số tiền 1.303.000.000 đồng, cụ thể như sau:

1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của anh Hoàng Văn T2 (sinh năm 1976; trú tại: Thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội) số tiền 603.000.000 đồng.

Ngày 19/3/2019, Nguyễn Công V sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BY 682311 cấp ngày 20/7/2017, thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65, địa chỉ: Thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội, diện tích 100m2 mang đi thế chấp để vay của anh Nguyễn Đức T3 (sinh năm 1974; trú tại: thôn N, xã P, huyện T, Hà Nội) số tiền 500.000.000 đồng, thời hạn vay 01 tháng. Để hợp thức việc vay tiền, ngày 19/3/2019 V cùng vợ là bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1970) và vợ chồng anh Nguyễn Đức T3, chị Chu Kim H (sinh năm 1985) đến Văn phòng C2, địa chỉ: Thị trấn L, huyện T, Hà Nội ký công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội dung: “Nguyễn Công V và Nguyễn Thị T chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65, GCNQSDĐ số BY 682311 cho vợ chồng anh T3, chị H, với giá 300.000.000 đồng”. Sau đó, anh T3 đã đưa cho V vay số tiền 500.000.000 đồng. Khoảng tháng 4/2019, anh T3 nghi ngờ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Vận thế chấp cho anh T3 là giả nên anh T3 yêu cầu V hoàn trả số tiền gốc, lãi theo thoả thuận là 600.000.000 đồng.

Do cần tiền trả nợ anh T3 nên V nói với anh Hoàng Văn T2 là V có thửa đất diện tích 100m2 đang thế chấp cho anh T3, nay Vận muốn bán thì anh T2 đồng ý mua. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng thửa đất trên là 660.000.000 đồng.

Ngày 18/4/2019, vợ chồng V, T cùng vợ chồng anh T2, chị H1 và vợ chồng anh T3, chị H đến Văn phòng C2. Tại đây, anh T2 đưa cho Vận số tiền 603.000.000 đồng (gồm 600.000.000 đồng để V trả cho anh T3 và 3.000.000 đồng tiền phí công chứng) đồng thời Vận cùng vợ chồng anh T3 đã ký văn bản hủy hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/3/2019, anh T3 trả cho V Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311. Ngay sau đó, vợ chồng V, T cùng vợ chồng anh T2, chị H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi kiểm tra hồ sơ yêu cầu công chứng, công chứng viên thuộc Văn phòng C2 nghi ngờ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả nên từ chối công chứng nhưng anh T2 vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311. Sau đó vợ chồng anh T2 và vợ chồng V đến Văn phòng C3, địa chỉ: Thị trấn Q, huyện Q, Hà Nội để đăng ký công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau khi công chứng viên kiểm tra, nghi ngờ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giả nên từ chối tiếp nhận hồ sơ công chứng. Tuy nhiên V vẫn cam kết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thật và hứa sẽ ký công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh T2 trong thời hạn 15 ngày. Để làm tin, V viết Giấy nhận tiền chuyển quyền sử dụng đất, nội dung: “Nguyễn Công V có nhận của ông Hoàng Văn T2 số tiền 603.000.000 đồng; Để đảm bảo Vận thế chấp mảnh đất ở thôn E, diện tích 100m2, số thửa 165A tờ bản đồ số 65, thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội. Sau khi làm thủ tục công chứng xong sẽ huỷ bỏ giấy này. Trường hợp có sự sai lệch về giấy tờ Vận sẽ hoàn trả lại đủ số tiền đã nhận trong vòng 15 ngày kể từ ngày hôm nay”. Vận và bà T ký, ghi họ tên dưới mục “người nhận tiền”.

Hết thời hạn cam kết, Nguyễn Công V không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 10/9/2019, anh Hoàng Văn T2 đã gửi đơn đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Q tố giác Nguyễn Công V có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Vật chứng thu giữ: Anh Hoàng Văn t giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311 do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 20/7/2017 cho Nguyễn Công V; 01 Giấy nhận tiền chuyển quyền sử dụng đất đề ngày 19/4/2019.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định các tài liệu thu giữ trên. Tại Kết luận giám định số 193/C09-P5 ngày 17/01/2020, V3 - Bộ C4, kết luận: Mẫu in giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hình dấu tròn “ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN QUỐC OAI. TP HÀ NỘI”, chữ ký mang tên Nguyễn Hồng L trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN992388 là giả.

Tại Kết luận giám định số 2019/KL-KTHS ngày 17/6/2022, V3 - Bộ C4, kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị T trên mẫu cần giám định so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Thị T trên mẫu so sánh do cùng một người ký, viết ra; Chữ ký, chữ viết trên mẫu cần giám định so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Công V trên mẫu so sánh do cùng một người ký, viết ra.

Xác minh thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65, địa chỉ: Thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội, Văn phòng Đ chi nhánh huyện Q xác định: Không có thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65, địa chỉ thôn E xã P, huyện Q, Hà Nội mang tên chủ sử dụng Nguyễn Công V; Thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 5, địa chỉ thôn E xã P, diện tích 100m2 thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Nguyễn Văn H2 (sinh năm 1988) và bà Đào Thị T4 (sinh năm 1988, cùng trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn N, huyện T, tỉnh Nam Định).

Về trách nhiệm dân sự: Bị can Nguyễn Công V đã trả lại anh Hoàng Văn T2 số tiền 603.000.000 đồng, nay anh T2 không yêu cầu bồi thường gì thêm và đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Nguyễn Công V.

2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của bà Phạm Thị T1 (sinh năm 1966; trú tại: Thôn V, xã N, T, Hà Nội) số tiền 700.000.000 đồng.

Năm 2012, Nguyễn Công V vay của bà Vũ Thị H3 (sinh năm 1958; trú tại:Thôn H, xã B, huyện T, Hà Nội) số tiền 1.500.000.000 đồng, V viết Giấy cam kết vay tiền đề ngày 20/10/2012.

Khoảng tháng 3/2019, Nguyễn Công V sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388, thửa đất số 19, tờ bản đồ số 05, địa chỉ: Thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội, diện tích 2115,5m2, trong đó đất ở 400m2, đất trồng cây lâu năm 1715,5m2 do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 02/6/2013 cho Nguyễn Công V mang đi thế chấp để vay tiền của anh Nguyễn Ánh D (sinh năm 1990; trú tại: Khu X, thị trấn X, huyện C, Hà Nội) số tiền 500.000.000 đồng. Để hợp thức việc vay tiền, ngày 01/4/2019 V cùng vợ là bà Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Ánh D đến Văn phòng C5 (địa chỉ: Thị trấn C, huyện C, Hà Nội) lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội dung: Nguyễn Công V và Nguyễn Thị T chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 19, tờ bản đồ số 5, địa chỉ thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388 với giá chuyển nhượng 2 bên tự thoả thuận là 500.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo yêu cầu của anh D, cùng ngày V đưa anh D đến xem vị trí thửa đất số 19, tờ bản đồ số 5 tại thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội và V giới thiệu đây là thửa đất của mình (thực tế đây là thửa đất của ông Ngô Văn T5 - sinh năm 1969; trú tại: Thôn B, xã P, huyện Q, Hà Nội). Anh D tin tưởng đã đưa cho V vay số tiền 500.000.000 đồng, hai bên không viết giấy biên nhận.

Năm 2019, bà Vũ Thị H3 yêu cầu V phải trả số tiền 300.000.000 đồng (trong khoản tiền 1.500.000.000 đồng đã vay từ năm 2012). Do không có tiền trả nên V nói với bà H3 là V có thửa đất diện tích 2115,5m2 hiện đang thế chấp để vay tiền của anh D, V nhờ bà H3 giúp vay tiền chỗ khác nhiều hơn số tiền đã vay của anh D để trả tiền cho bà H3. Bà H3 đã giới thiệu cho V gặp bà Phạm Thị T1. Ngày 10/5/2019, V và bà T1 thoả thuận, V thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2115,5m2 cho bà T1, bà T1 cho V vay số tiền 1.200.000.000 đồng, sau 03 tháng Vận sẽ trả số tiền 1.500.000.000 đồng. Nếu vi phạm thỏa thuận thì V có trách nhiệm làm thủ tục sang tên thửa đất trên cho bà T1. Cùng ngày 10/5/2019, Vợ chồng V cùng bà T1, bà H3, chị Nguyễn Thị N (sinh năm 1974 là con bà H3) và anh D đến Văn phòng C5. Tại đây, bà T1 đưa Vận số tiền 700.000.000 đồng để V trả cho anh D. Sau đó vợ chồng V và anh D lập Văn bản huỷ hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/5/2019 giữa vợ chồng V và anh D rồi anh D trả lại Vận Giấy chứng nhận quyền sử dụng dất số AN 992388. Do chưa ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng V và bà T1 nên V viết “Giấy biên nhận” thể hiện Vận nhận của bà T1 số tiền 700.000.000 đồng. Ngày 11/5/2019, vợ chồng V và bà T1 đến Văn phòng C6 (địa chỉ: Số A, thị trấn V, huyện T, Hà Nội) ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội dung: “Nguyễn Công V và Nguyễn Thị T chuyển nhượng cho bà Phạm Thị T1 thửa đất số 19, tờ bản đồ số 5, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388, với giá 1.500.000.000 đồng”. Đến hẹn nhưng V không trả tiền cho bà T1 theo thỏa thuận nên ngày 01/11/2019, bà T1 đến Văn phòng Đ - Chi nhánh huyện Q để làm thủ tục sang tên thì được thông báo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388 là giả. Ngày 19/12/2019, bà T1 gửi đơn đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Q tố giác Nguyễn Công V có hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Vật chứng thu giữ: Bà Nguyễn Thị T6 giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388 do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 02/6/2013 cho Nguyễn Công V.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định tài liệu đã thu giữ. Tại Kết luận giám định số 2332/C09-P5 ngày 29/5/2020, V3 - Bộ C4, kết luận: “Mẫu in giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dấu tròn UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN QUỐC OAI T.P HÀ NỘI, chữ ký mang tên Nguyễn Hồng L trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311 là giả”.

Xác minh thửa đất số 19, tờ bản đồ số 5, địa chỉ: Thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội tại Văn phòng đăng ký đất đai - chi nhánh huyện Q, xác định: Thửa đất số 19, tờ bản đồ số 5, địa chỉ: Thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội có diện tích 1.380,1m2 được Sở Tài nguyên và môi trường thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 888245 cho anh Lê Văn T7 (sinh năm 1992; trú tại:

Thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội). Ủy ban nhân dân huyện Q không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388 có diện tích 2.115,5m2 cho Nguyễn Công V.

Tại Cơ quan điều tra, bà Phạm Thị T1 khai: Ngoài số tiền 700.000.000 đồng ngày 10/5/2019 bà T1 đã đưa cho V để V trả anh D, thì sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng C6, bà T1 còn đưa Vận số tiền 800.000.000 đồng nhưng không có ai chứng kiến, không có giấy tờ xác nhận. Tuy nhiên Nguyễn Công V khai chỉ nhận của bà T1 số tiền 700.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã tổ chức đối chất giữa V và bà T1 nhưng hai bên vẫn giữ nguyên nội dung đã khai nêu trên. Ngoài lời khai của bà T1 thì không có tài liệu chứng cứ nào khác xác định bà T1 đã đưa cho V tổng số tiền 1.500.000.000 đồng. Căn cứ vào tài liệu thu thập được, Cơ quan điều tra kết luận Nguyễn Công V chiếm đoạt của bà Phạm Thị T1 số tiền 700.000.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Công V khai: Khi thuê đối tượng K1 làm giả sổ đỏ thì V đặt cọc cho K1 số tiền 2.000.000 đồng/01 sổ đỏ giả bằng hình thức chuyển khoản đến tài khoản của Chu Vĩnh K1 thông qua dịch vụ chuyển tiền V4, tuy nhiên V không nhớ số tài khoản và thời gian chuyển tiền nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để điều tra xác minh đối tượng Chu Vĩnh K1. Sau khi sổ đỏ làm xong, chị Phạm Thị Hồng P (sinh năm 1975; trú tại: Thôn L, xã H, huyện Q, Hà Nội) mang 02 sổ đỏ đến đưa cho V và V thanh toán số tiền còn lại cho chị P. Tại Cơ quan điều tra, chị P khai không chuyển bất cứ đồ vật, tài liệu gì cho V. Xác minh tại Bưu điện thành phố H, xác định: Chị P không phải là nhân viên chuyển phát của Bưu điện thành phố H. Quá trình điều tra, Nguyễn Công V từ chối tham gia nhận dạng nhằm xác định người chuyển sổ đỏ giả cho V nên Cơ quan điều tra không tổ chức cho V nhận dạng chị P. Do chưa xác định được đối tượng Chu Vĩnh K1 nên chưa làm rõ được mối quan hệ giữa K1 và chị P có liên quan đến hành vi làm giả 02 sổ đỏ như đã nêu trên, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố H đã tách hành vi của các đối tượng K1, P để tiếp tục xác minh làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với hành vi của Nguyễn Công V sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311 thế chấp vay của anh Nguyễn Đức T3 số tiền 500.000.000 đồng và sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388 thế chấp vay của anh Nguyễn Ánh D số tiền 500.000.000 đồng. Khi anh T3 và anh D yêu cầu hoàn trả tiền vay thì V đã trả đủ cả tiền gốc và tiền lãi cho anh T3 và anh D theo đúng thỏa thuận trước khi vụ án được phát hiện. Anh T3 và anh D đã nhận đủ tiền không yêu cầu gì. Xét thấy Nguyễn Công V có hành vi gian dối, thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để vay tiền của anh T3 và anh D nhưng không có mục đích chiếm đoạt nên Cơ quan điều tra xác định không đủ căn cứ xử lý Nguyễn Công V về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh T3 và anh D.

Đối với số tiền anh Nguyễn Đức T3 và Nguyễn Ánh D cho V vay nhiều lần khác nhau, sau đó V đã trả đủ tiền gốc và tiền lãi theo thỏa thuận. Quá trình điều tra chưa xác định được nơi cư trú của anh Nguyễn Đức T3 cũng như chưa xác định được cụ thể mức lãi suất nên chưa có đủ cơ sở xác định anh T3 và anh D có hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Cơ quan điều tra đã tách hành vi có dấu hiệu cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự để tiếp tục xác minh, xem xét xử lý sau.

Đối với bà Nguyễn Thị T (vợ V) cùng với Nguyễn Công V có đứng tên, có ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau đó để V lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Hoàng Văn T2 và bà Phạm Thị T1. Tại Cơ quan điều tra, bà T khai: Bản thân V làm nghề môi giới bất động sản, khi V nhờ đến Văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bà T đã ký tên bên chuyển nhượng. Bà T không biết V làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà T không tham gia thoả thuận vay tiền của bà T1, anh T2, không được hưởng lợi từ tiền chiếm đoạt. Do vậy, Cơ quan điều tra xác định không đủ căn cứ kết luận bà Nguyễn Thị T đồng phạm với Nguyễn Công V nên không đề cập xử lý.

Đối với Công chứng viên Nguyễn Anh N1 thuộc Văn phòng C2 đã ký chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Nguyễn Công Vận chuyển n cho anh Hoàng Văn T2 và Công chứng viên Trần Quang S thuộc Văn phòng C5 đã ký chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Nguyễn Công Vận chuyển n cho bà Phạm Thị T1. Quá trình lập hợp đồng công chứng, anh N1 và anh S đã thực hiện đúng quy trình công chứng; anh N1, anh S không biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đưa ra công chứng là giả nên Cơ quan điều tra xác định anh N1, anh S không phạm tội hình sự và không đề cập xử lý.

Tại Cáo trạng số 18 /CT-VKS-P3 ngày 09/01/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Công Vận về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 257/2023/HS-ST ngày 23/06/2023, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Công V (tên gọi khác Nguyễn Văn V1) phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Công V (tên gọi khác Nguyễn Văn V1) 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình phạt của hai tội là 15 (mười lăm) năm tù. Buộc bị cáo phải chấp hành 32 (ba hai) tháng 10 (mười) ngày tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 24/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai xử. Hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 17 (mười bảy) năm 08 (tám) tháng 10 (mười) ngày tù. Hạn tù tính từ ngày 19/01/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Công V phải bồi thường cho bà Phạm Thị T1 số tiền 700.000.000 (Bảy trăm triệu) đồng.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật hoặc có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/6/2023, bị hại là bà Nguyễn Thị T6 có đơn kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên mức hình phạt đối với bị cáo là thấp và buộc bị cáo bồi thường với mức tiền thấp hơn thiệt hại thực tế xảy ra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị T6 không rút đơn kháng cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vai trò đồng phạm của Nguyễn Thị T (vợ V).

Bị cáo Nguyễn Công V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã mô tả, xác định việc bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” là đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận kháng cáo của người bị hại. Về vai trò của bà T, bị cáo khẳng định bà T không hề biết việc bị cáo làm giấy tờ giả; không biết và không được hưởng lợi từ khoản tiền bị cáo chiếm đoạt; Bà T là vợ bị cáo nên chỉ làm theo yêu cầu của bị cáo khi ký các hợp đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá về nội dung vụ án, tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng và căn cứ kháng cáo của bị hại, đã nêu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Công V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, mức hình phạt là tương xứng. Đối với kháng cáo của người bị hại liên quan đến bà Nguyễn Thị T là vợ bị cáo Nguyễn Công V, bà T không biết V làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không tham gia thỏa thuận vay tiền của bà T6, anh T2, không được hưởng lợi từ tiền chiếm đoạt. Do vậy, không đủ căn cứ kết luận bà Nguyễn Thị T đồng phạm với Nguyễn Công V. Tại phiên tòa phúc thẩm, không có tình tiết mới phát sinh, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo Nguyễn Công V: Đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bà Nguyễn Thị T6 trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Công V tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng được thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Bản thân Nguyễn Công V đã có 01 tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 24/7/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai xử phạt 36 tháng tù nhưng chưa thi hành xong vì được hoãn chấp hành án phạt tù), tuy nhiên do cần tiền chi tiêu cá nhân và trả nợ, nên vào khoảng tháng 01/2019 Nguyễn Công V đã đặt của đối tượng không quen biết trên mạng làm giả 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 682311, do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 20/7/2017 (đối với thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65, địa chỉ tại thôn E, xã P, huyện Q, Hà Nội, diện tích 100m2, mục đích: Đất ở) và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 992388 do Ủy ban nhân dân huyện Q cấp ngày 02/6/2013 (đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 05, địa chỉ tại thôn D, xã P, huyện Q, Hà Nội, diện tích 2115,5m2, trong đó đất ở 400m2, đất trồng cây lâu năm 1715,5m2) đều đứng tên chủ sử dụng đất là Nguyễn Công V. Sau đó V đã đưa ra thông tin gian dối 02 thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của V và sử dụng 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này để thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho 02 người nhằm chiếm đoạt tổng số tiền 1.303.000.000 đồng. Cụ thể:

- Ngày 18/4/2019, V sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BY682311 ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng thửa đất số 165A, tờ bản đồ số 65 cho anh Hoàng Văn T2 để chiếm đoạt số tiền 603.000.000 đồng.

- Ngày 11/5/2019, V sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số AN992388 ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng thửa đất số 19, tờ bản đồ số 05 cho bà Phạm Thị T1 để chiếm đoạt số tiền 700.000.000 đồng của bà T1.

Với hành vi nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử Nguyễn Công V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

[3] Quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, người bị hại là bà Phạm Thị T1 xác định giao dịch giữa bị cáo và bà là giao dịch mua bán đất có hợp đồng công chứng, bà đã giao tổng số tiền cho bị cáo là 1.500.000.000 đồng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Việc giao tiền được thực hiện làm 02 lần, lần thứ nhất giao tại Văn phòng công chứng với số tiền 700.000.000 đồng có lập Biên nhận và có nhiều người chứng kiến để bị cáo trả cho anh Nguyễn Ánh D; lần thứ hai sau khi từ Văn phòng công chứng ra về bà giao tiếp số tiền 800.000.000 đồng cho V nhưng không lập Biên nhận và không có người chứng kiến vì bà nghĩ đã có hợp đồng công chứng. Còn số tiền con gái bà chuyển cho bị cáo V không liên quan đến thỏa thuận giữa bà và bị cáo. Vì vậy phải xác định bị cáo đã nhận và chiếm đoạt của bà 1.500.000.000 đồng.

Trong khi đó tại cơ quan điều tra bị cáo V chỉ thừa nhận đã nhận của bà T1 tổng số tiền 810.000.000 đồng, bao gồm số tiền 700.000.000 đồng do bà T1 giao tại Văn phòng công chứng và 110.000.000 đồng (gồm 106.500.000 đồng theo hợp đồng và 3.500.000 đồng phí công chứng) do con gái bà T1 là Nguyễn Thị Quỳnh H4 chuyển khoản.

Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa bị cáo V và bà T1. Tại Biên bản đối chất ngày 16/8/2022 (BL244-247) bị cáo V và bà T1 đều giữ nguyên lời khai nêu trên. Như vậy, đối với số tiền 800.000.000 đồng thì ngoài lời khai của bà T1 thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh thực tế có việc bà T1 giao cho bị cáo Vận số tiền này. Nội dung Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được V và bà T1 ký kết tại Văn phòng công chứng chỉ thể hiện giá chuyển nhượng hai bên thỏa thuận là 1.500.000.000 đồng, việc trả và nhận tiền do hai bên tự thực hiện, đồng nghĩa với việc Văn phòng công chứng không chứng kiến, không xác nhận việc giao nhận tiền của hai bên nên không thể căn cứ vào hợp đồng này để quy kết bị cáo đã nhận tổng số tiền 1.500.000.000 đồng của bà T1.

Đối với số tiền 110.000.000 đồng (gồm 106.500.000 đồng theo hợp đồng và 3.500.000 đồng phí công chứng), bị cáo V khai bà T1 nhờ con gái là chị Nguyễn Thị Quỳnh H4 chuyển khoản cho V. Tuy nhiên do bà T1 khẳng định số tiền này không liên quan đến thỏa thuận giữa bà và bị cáo, đồng thời cũng chưa xác định nơi cư trú của chị Nguyễn Thị Quỳnh H4, anh Bạch Việt A nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu có liên quan đến nội dung này để khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm chỉ quy kết bị cáo nhận và chiếm đoạt của bà T1 số tiền 700.000.000 đồng là đúng. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà T1 về vấn đề này.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Công V là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác với số lượng lớn, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội mà còn gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đã khắc phục một phần hậu quả (đã bồi thường cho anh Hoàng Văn T2 toàn bộ số tiền chiếm đoạt 603.000.000 đồng) nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội nhiều lần và nhân thân có 01 tiền án do Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai xét xử chưa chấp hành nên hành vi phạm tội lần này được xác định là tái phạm, vì vậy cần áp dụng các tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đầy đủ và chính xác các tình tiết nêu trên để từ đó tuyên mức hình phạt 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 15 năm tù đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà T1 về vấn đề này.

[5] Đối với bà Nguyễn Thị T cùng với Nguyễn Công V có đứng tên, có ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau đó để V thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh T2, bà T1. Tuy nhiên, bản thân V làm nghề môi giới bất động sản, do là vợ chồng nên khi V nhờ bà T đến Văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bà T đã ký tên bên chuyển nhượng. Bà T không biết V làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không tham gia thoả thuận vay tiền của bà T1, anh T2, không được hưởng lợi từ tiền chiếm đoạt. Do vậy, Cơ quan điều tra xác định không đủ căn cứ kết luận bà Nguyễn Thị T đồng phạm với Nguyễn Công V nên không xem xét xử lý là đúng.

Tại cấp phúc thẩm, không có thêm tình tiết mới phát sinh, vì vậy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà T1 về vấn đề này.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Như phần trên đã phân tích thì bị cáo đã chiếm đoạt của bà T1 số tiền 700.000.000 đồng nên bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bà T1 số tiền này.

[7] Về án phí: Bà Phạm Thị T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của người bị hại là bà Phạm Thị T1; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 257/2023/HS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công V (tên gọi khác Nguyễn Văn V1) phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55; Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công V (tên gọi khác Nguyễn Văn V1) 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 15 (mười lăm) năm tù.

Buộc bị cáo Nguyễn Công V (tên gọi khác Nguyễn Văn V1) phải chấp hành 32 (ba mươi hai) tháng 10 (mười) ngày tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 24/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai thành phố Hà Nội. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai bản án, bị cáo Nguyễn Công V (tên gọi khác Nguyễn Văn V1) phải chấp hành hình phạt là 17 (mười bảy) năm 08 (tám) tháng 10 (mười) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 19/01/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Công V phải bồi thường cho bà Phạm Thị T1 số tiền 700.000.000 (Bảy trăm triệu) đồng.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật hoặc có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 800/2023/HS-PT

Số hiệu:800/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;