Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 68/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 12/04/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 04 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2023/HSST ngày 22/03/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2023/QĐXXST-HS ngày 28/03/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Kiều O; Giới tính: Nữ; sinh năm 1995 tại tỉnh Đ; Hộ khẩu thường trú: phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ; Chỗ ở: Phường 13, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Đinh Đắc Đ và bà Trần Thị Bích T; Hoàn cảnh gia đình: Không có chồng, có 01 con sinh năm 2018; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 05/12/2022 (có mặt).

Bị hại:

1/ Ông Lương Mạnh H, sinh năm 2000; Địa chỉ: Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

2/ Bà Nguyễn Tường V, sinh năm 2000; Địa chỉ: Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu mở thẻ tín dụng nên cuối tháng 09/2022, anh Lương Mạnh H dùng tài khoản Faebook cá nhân đăng bài viết trong nhóm “Mở thẻ tín dụng TP. HCM” để nhờ người làm dịch vụ mở thẻ tín dụng có hạn mức (chi tiêu trước, trả tiền sau) của Ngân hàng để sử dụng. Trong nhóm có Đinh Kiều O sử dụng Facebook cá nhân “Cherry A” thấy bài viết trên của anh H nên O dùng tài khoản “Cherry A” nhắn tin qua Messger với anh H. Ngày 09/10/2022, O nhắn tin giả vờ bảo với anh H bản thân O là cộng tác viên với nhiều nhân viên Ngân hàng, có thể giúp anh H mở thẻ tín dụng, phí dịch vụ mở thẻ mà anh H phải trả cho O là 10% với tổng hạn mức tiền tương ứng với thẻ tín dụng được cấp, đôi bên hẹn gặp nhau tại quán cà phê FAVI địa chỉ Phường 8, quận Gò Vấp để trao đổi cụ thể về việc mở thẻ tín dụng trên. Như đã hẹn, chiều ngày 10/10/2022, tại quán cà phê FAVI O gặp trực tiếp anh H thì O yêu cầu anh H cung cấp thông tin cá nhân để làm thẻ tín dụng cho anh H. O nhờ bạn (nhân viên ngân hàng) kiểm tra thông tin của H trên hệ thống ngân hàng nhưng chưa nhận được kết quả trả lời, tuy nhiên, do muốn chiếm đoạt tiền của anh H nên O vẫn nói với anh H có khả năng mở 03 thẻ tín dụng cho anh H lần lượt ở các Ngân hàng gồm: Thẻ tín dụng Samcombank với hạn mức 50.000.000 đồng, Thẻ tín dụng VIB bank với hạn mức 30.000.000 đồng, thẻ tín dụng Seabank với hạn mức 50.000.000 đồng; Tổng hạn mức cả ba thẻ tín dụng trên là 130.000.000 đồng nên phí dịch vụ tương ứng mà anh H phải trả cho O là 13.000.000 đồng. Đến khoảng 19h cùng ngày, O được bạn trả lời là hồ sơ của anh H không được mở thẻ ngân hàng do anh H đang sử dụng thẻ của ngân hàng khác. Biết được hồ sơ của anh H không đủ điều kiện mở thẻ ngân hàng nhưng O vẫn yêu cầu anh H chuyển tiền dịch vụ cho O. Tin tưởng O có khả năng mở thẻ tín dụng, khoảng 20h cùng ngày 10/10/2022, khi anh H đang ở phòng thuê tại địa chỉ Phường 14, quận Gò Vấp, thì anh H đã đã thực hiện giao dịch chuyển khoản trước 5.000.000 đồng từ tài khoản Ngân hàng VP Bank do anh H đứng tên số: 72000609 vào tài Ngân hàng ACB số: 1539xxxx do Đinh Kiều O đứng tên. Sau đó, anh H tiếp tục chuyển khoản 2.000.000 đồng từ tài khoản Ngân hàng VP Bank trên của anh H vào tài khoản Ngân hàng ACB trên của O. Đến ngày 21/10/2022, O tiếp tục hối thúc anh H chuyển số tiền còn lại để hoàn tất việc cấp thẻ tín dụng nên anh H chuyển từ ví MOMO cá nhân của anh H thuê bao di động số: 078869xxxx sang ví MOMO của O thuê bao di động số: 078869xxxx hai lần tiền lần lươt là 1.000.000 đồng và 4.000.000 đồng. Tổng số tiền mà O đã nhận từ anh H là 12.000.000 đồng và hẹn 1.000.000 đồng còn lại anh H sẽ trả nốt cho O khi nhận được các thẻ tín dụng Ngân hàng như O đã hứa trên. O cũng cam đoan từ 05 đến 07 ngày sau đó thì anh H sẽ nhận được các thẻ tín dụng liên quan nêu trên. Ngoài ra, do tin tưởng O có khả năng mở được thẻ tín dụng Ngân hàng nên anh H đã giới thiệu bạn gái là chị Nguyễn Tường V gặp Đinh Kiều O để O tư vấn việc mở thẻ tín dụng cho chị V. Như đã hẹn, trong ngày 21/10/2022 và ngày 27/10/2022, cả anh H và chị V đều gặp O tại quán cà phê FAVI nêu trên thì O cũng nói có thể mở thẻ tín dụng Ngân hàng VIB cho chị V với hạn mức là 135.000.000 đồng cũng với phí dịch vụ khi mở được thẻ là 10% tương ứng là 13.500.000 đồng. Sau khi được O tư vấn, chị V đề nghị khi nào nhận được thẻ tín dụng với hạn mức như O tư vấn trên thì sẽ trả phí dịch vụ như đã thỏa thuận cho O. Ngày 28/10/2022, O sử dụng tài khoản Zalo “Nấm C” nhắn tin với chị V đề nghị chị V chuyển trước cho O số tiền 7.000.000 đồng với lý do để sớm duyệt và nhận được thẻ tín dụng của chị V, O cam đoan với chị V khoảng 02 đến 03 ngày sau đó chị V sẽ nhận được thẻ tín dụng của chị V mở tại Ngân hàng VIB với hạn mức là 135.000.000 đồng. Tin tưởng những gì O nói là thật, khi đang ở phòng thuê trọ tại Phường 14, quận Gò Vấp, thì chị V đã sử dụng tài khoản Ngân hàng ACB số: 2572xxxx của chị V đứng tên chuyển vào tài khoản Ngân hàng ACB số: 1539xxxx do Đinh Kiều O đứng tên số tiền 7.000.000đồng như yêu cầu của O. Sau khi nhận được 12.000.000 đồng từ anh Lương Mạnh H và 7.000.000 đồng từ chị Nguyễn Tường V thì Đinh Kiều O không hề thực hiện bất cứ việc hay liên hệ với các Ngân hàng liên quan nêu trên để thực hiện việc cấp thẻ tín dụng cho anh H và chị V như O đã hứa hẹn. Khi đã chiếm đoạt được 19.000.000đồng từ hai bị hại anh H và chị V thì O chặn mọi liên lạc. Tối ngày 03/12/2022, phát hiện Đinh Kiều O có mặt tại địa chỉ xã Hòa Phú, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh thì anh H và chị V đã giữ O lại rồi đưa về trụ sở Công an phường 14, quận Gò Vấp làm việc. Tại Công an phường 14, quận Gò Vấp và Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Đinh Kiều O đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Về phần khắc phục hậu quả, anh H yêu cầu bị cáo O bồi thường số tiền 13.300.000đồng (gồm tiền O chiếm đoạt và tiền lãi). Chị V yêu cầu O bồi thường số tiền 8.500.000đồng (gồm tiền O chiếm đoạt và tiền lãi). Hiện tại O chưa có khả năng khắc phục.

Cơ quan điều tra đã tạm giữ và nhập kho vật chứng 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus của O sử dụng liên lạc phạm tội theo phiếu nhập kho vật chứng số 37/PNK ngày 28/02/2023 của Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp.

Tại bản cáo trạng số 79/CTr-VKS ngày 16/3/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Đinh Kiều O về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Đinh Kiều O từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Buộc bị cáo bồi thường cho ông Lương Mạnh H số tiền 12.000.000 đồng

- Buộc bị cáo bồi thường cho bà Nguyễn Tường V số tiền 7.000.000 đồng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus.

Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

[2] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Đinh Kiều O đã khai nhận hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[3] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo Đinh Kiều O đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 174 của bộ luật hình của Bộ luật hình sự [4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo dùng thủ đoạn gian dối nói mình có khả năng làm hồ sơ mở thẻ tín dụng cho các bị hại Lương Mạnh H và Nguyễn Tường V nhưng thực chất bị cáo không có khả năng làm thẻ tín dụng cho các bị hại nhưng bị cáo vẫn yêu cầu bị hại H chuyển cho bị cáo 12.000.0000 đồng và bị hại V chuyển cho bị cáo 7.000.000 đồng chi phí làm thẻ tín dụng, sau khi nhận được tiền bị cáo tắt máy không liên lạc với các bị hại và chiếm đoạt số tiền trên. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản được pháp luật và nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bị cáo lao vào con đường phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra. Bị cáo đã lừa 02 bị hại với tổng số tiền là 19.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự là phù hợp qui định pháp luật, mặt khác bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo đối với 02 bị hại nên thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần, nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm g khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự. Vì vậy đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[6] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 174, của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, các bị hại Lương Mạnh H và Nguyễn Tường V có mặt, bị hại H chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền chiếm đoạt là 12.000.000 đồng, bị hại V yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền chiếm đoạt 7.000.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường cho các bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy thỏa thuận trên không trái pháp luật, nghĩ nên ghi nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus của bị cáo O sử dụng liên lạc và nhận tiền từ các bị hại chuyển qua cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét đây là phương tiện phạm tội, nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đinh Kiều O phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Đinh Kiều O 01(một) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 05/12/2022.

- Áp dụng Điều 47, 48 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Buộc bị cáo bồi thường cho ông Lương Mạnh H số tiền 12.000.000 đồng. Buộc bị cáo bồi thường cho bà Nguyễn Tường V số tiền 7.000.000 đồng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 37/PNK ngảy 28/02/2023 của cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Gò Vấp).

Kể từ ngày các bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo không thực hiện việc bồi thường, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 950.000(chín trăm năm chục ngàn) đồng.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, 7a, 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 68/2023/HS-ST

Số hiệu:68/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;