Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 64/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 64/2024/HS-ST NGÀY 13/08/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 08 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2024/HSST ngày 20 tháng 06 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2024/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 7 năm 2024 đối với bị cáo:

Lê Viết C; sinh ngày 13 tháng 10 năm 2002; Giới tính: Nam Tên gọi khác: Không Nơi cư trú: Tổ dân phố 6, thị trấn N, huyện Tr, tỉnh Thanh Hóa;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Lê Viết T1, sinh năm 1967 và bà: Lê Thị M, sinh năm 1968; Vợ: Đinh Thị Quỳnh T2, sinh năm 2003 ; Có 01 con sinh năm 2023. Tiền án; Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/05/2024 đến ngày 15/05/2024 chuyển tạm giam. Hiện nay đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Lê Văn Đ, sinh năm 2005 ( vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Trọng T3, sinh năm 2001 HKTT: Thôn Quần Thanh 2, xã Khuyến N, huyện Tr, Thanh Hóa.

Hiện nay đang đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản + Chị Phạm Thị Huyền T2, sinh năm 2002 HKTT: Thôn Quần Thanh 2, xã Khuyến N, huyện Tr, Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4 năm 2024, khi đang chơi game tại quán internet gần trường Trung học phổ thông Tr, ở xã T, huyện Tr, do hết tiền chơi game và cần tiền tiêu xài cá nhân nên Lê Viết C nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Lê Văn Đ. C gọi điện nhờ anh Đ đến đón C về tổ dân phố 3, thị trấn Nưa thì được anh Đ đồng ý. Anh Đ đi xe mô tô nhãn hiệu Honda WinerX màu đen vàng, BKS: 36C2-012.xx của anh Đ đến đón C. Khi đi về đến cổng trường mầm non thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn, C hỏi mượn xe của Đ nói dối đi đến nhà bác gặp mẹ C để lấy chìa khóa nhà thì được anh Đ đồng ý; C hẹn anh Đ chờ C khoảng 05 phút. Ngay sau khi lấy được xe từ anh Đ, C đi đến xã Khuyến Nông, huyện Triệu Sơn gọi điện qua facebook cho bạn là Nguyễn Trọng T3, sinh năm 2001, ở thôn Quần Thanh 2, xã Khuyến N, huyện Tr (anh T3 đang đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản), hỏi vay số tiền 5.000.000đ và để lại xe mô tô thì được anh T3 đồng ý. C dắt xe vào kho nhà anh T3 rồi đi đến quán của chị Lê Thị H, sinh năm 1983, ở thôn Quần Thanh 2, xã Khuyến N làm dịch vụ chuyển tiền nhanh để anh T3 chuyển tiền. Anh T3 chuyển vào tài khoản của chị Hiểu số tiền 5.000.000đ, C trả tiền phí cho chị Hiểu 20.000đ và nhận số tiền 5.000.000đ. Khi có được tiền C bắt taxi xuống thành phố Thanh Hóa chơi game và tiêu xài cá nhân hết số tiền nói trên. Do không thấy C quay lại trả xe như đã hẹn nên anh Đ gọi điện, nhắn tin nhiều lần, nhiều ngày nhưng C vẫn không trả xe cho anh Đ. Ngày 09/5/2024, anh Đ đến Công an thị trấn Nưa trình báo. Hồi 07 giờ 30 phút ngày 10/5/2024, C đến Công an thị trấn Nưa đầu thú khai nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Sơn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS: 36C2-012.xx đã qua sử dụng.

Ngày 14/5/2024, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Triệu Sơn có Bản kết luận định giá tài sản số 348/KL-HĐĐGTS kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Winer X màu đen vàng, BKS: 36C2-012.xx có giá 26.000.000đ.

Tại biên bản trích xuất hình ảnh camera tại cổng trường mần non thị trấn Nưa, cũng như một số hình ảnh camera khác ghi nhận hình ảnh C và anh Đ, quá trình di chuyển của C phù hợp với lời khai của C và anh Đ.

Tại biên bản trích xuất tin nhắn điện thoại của anh Lê Văn Đ ghi nhận nội dung anh Đ nhắn tin, gọi điện nhiều lần, nhiều ngày đòi lại xe nhưng C không trả.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được chiếc xe máy, nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Anh Nguyễn Trọng T3, hiện nay đang lao động tại Nhật Bản. Quá trình giải quyết vụ án chị Phạm Thị Huyền T1 là vợ anh T3 trình bày số tiền 5.000.000đ anh T3 chuyển khoản cho C là tài sản C của vợ chồng, Chị T1 nộp hình ảnh là tin nhắn giữa chị T1 và anh T3 qua messerger (tài khoản đăng nhập faceboock của anh T3 là Nguyễn Trọng T3 , tài khoản đăng nhập faceboock của chị T1 là T1 Phạm ). Qua tin nhắn chị T1 chụp và nộp cho Tòa án thể hiện nội dung anh T3 và chị T1 đều thống nhất không yêu cầu C phải trả lại số tiền 5.000.000đ và cũng không yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Bản cáo trạng số 49/CT- VKS - TS, ngày 19 tháng 06 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn, truy tố bị cáo Lê Viết C phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận T3 bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình giải quyết vụ án đều không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Lê Viết C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” + Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

+ Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Viết C từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/05/2024. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì, nên không xét;

+ Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 135;136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; Điều 23 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH 14 ngày 30/6/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội và không có ý kiến tranh luận đối với Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất hối hận xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội của bị cáo:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4 năm 2024, tại cổng trường mầm non thị trấn Nưa, địa chỉ tại tổ dân phố 3, thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn, Lê Viết C đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winer X màu đen vàng, BKS: 36C2-012.xx trị giá 26.000.000đ của anh Lê Văn Đ đưa đi cầm cố lấy số tiền 5.000.000đ chi tiêu cho mục đích cá nhân.

Hành vi của Lê Viết C đã phạm vào tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo Lê Viết C đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục và phòng ngừa C.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Lê Viết C phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trong; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú. Vì vậy, Lê Viết C được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i; s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự .

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

[5] Về trách nhiệm hình sự: Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo và phòng ngừa C.

[6] Về vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS: 36C2-012.xx đã qua sử dụng, sau khi định giá tài sản, Cơ quan Công an đã trả lại cho các chủ phương tiện đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 174, điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lê Viết C phạm tội " Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

- Xử phạt bị cáo Lê Viết C 15 ( mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10 tháng 05 năm 2024.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng.

-Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Điều 331, 333; Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự ; khoản 1 Điều 6; Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tiểu mục 1, mục I danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo nghị quyết 326.

Buộc bị cáo Lê Viết C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 64/2024/HS-ST

Số hiệu:64/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;